Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 724/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 724/2023/HS-PT NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 607/TLPT-HS ngày 06 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo Triệu Văn B1 và Phùng Văn H1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của bị cáo Triệu Văn B1 và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

* Bị cáo có kháng cáo:

Triệu Văn B1, sinh ngày 01-12-1991 tại huyện C1, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn NV, xã C2, huyện C1, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Hữu Q1 (đã chết) và bà Lý Thị H2; có vợ là Hoàng Thị L1 và có 02 con; tiền án: Bản án số 66/2019/HS-ST ngày 20-9-2019 Tòa án nhân dân huyện C1, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 tháng tù về tội Đánh bạc (chưa được xóa án tích); tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29-6-2021 cho đến nay, có mặt.

* Bị cáo bị kháng nghị Phùng Văn H1, sinh ngày 24-3-1995 tại huyện C1, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn NV, xã C2, huyện C1, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn Đ1 và bà Sầm Thị T1; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Bản án số 01/2022/HS-ST ngày 04/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện C1, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29-6-2021 cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Triệu Văn B1: Bà Lê Thị L2, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Phùng Văn H1: Ông Lâm Xuân T2, Luật sư Văn phòng Luật sư NH thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nông Văn T3, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn PP, xã C2, huyện C1, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

+ Anh Hoàng Văn N1, sinh năm 1990; địa chỉ: thôn NV, xã C2, huyện C1, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Hứa Văn N2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 40 phút ngày 29/6/2021 tại thôn BL, xã L3, huyện C1, tỉnh Lạng Sơn; Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lạng Sơn phối hợp Phòng phòng chống tội phạm và ma túy, Bộ chỉ huy bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn, Đồn Biên phòng L3 và Công an xã L3, huyện C1 phát hiện bắt quả tang đối tượng Triệu Văn T4 và Phùng Văn H1 có hành vi Tàng trữ trái phép 0,159 gam chất ma túy Heroin, mục đích để sử dụng. Điều tra ban đầu, Phùng Văn H1 khai nhận: Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trên, Phùng Văn H1 còn trao đổi mua bán trái phép chất ma túy với Triệu Văn B1. Cùng ngày 29/6/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp và giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Triệu Văn B1, qua khám xét thu giữ của Triệu Văn B1 10 bánh hình hộp chữ nhật được bọc ngoài bằng nhiều lớp nilon, bên trong các bánh đều chứa chất bột màu trắng; 01 giấy chứng minh nhân dân; 01 thẻ ATM Ngân hàng V; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng.

Kết luận giám định số 256/KL-PC09 ngày 06/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận số ma túy thu giữ tại nơi ở của Triệu Văn B1 là ma túy Heroine, có tổng khối lượng 3.332,590 gam (đã trừ bì).

Tại Cơ quan điều tra của Triệu Văn B1 khai: Ngày 21/6/2021, Triệu Văn B1 gặp Nông Văn T3, khi gặp Nông Văn T3 nói với Triệu Văn B1 tìm nguồn ma túy để đem sang Trung Quốc bán sẽ trả tiền công 50.000.000 đồng, Nông Văn T3 đã được người Trung Quốc cho 200.000 Nhân dân tệ và 300.000.000 đồng, Triệu Văn B1 đồng ý. Sau đó Triệu Văn B1 gặp Hoàng Văn N1 và nói với Hoàng Văn N1 “có người tìm mua 10 bánh ma túy Heroine, xem tìm có nguồn ma túy không”, Hoàng Văn N1 đồng ý.

Ngày 26/6/2021, Triệu Văn B1 gặp Hoàng Văn N1, N1 nói đang có 10 bánh ma túy. Sau đó Triệu Văn B1 hẹn Nông Văn T3 vào nhà gặp Hoàng Văn N1 để trao đổi thỏa thuận giá mua bán ma túy, thì Nông Văn T3 nói với Triệu Văn B1 để T3 liên lạc với người Trung Quốc, nếu bán được ma túy thì sẽ hẹn người có ma túy gặp trao đổi thỏa thuận giá mua bán. Ngày 29/6/2021, Nông Văn T3 gọi điện thoại cho Triệu Văn B1 nói người Trung Quốc đã nhận hàng ma túy và bảo Nông Văn T3 hẹn người có ma túy đến để trao đổi mua ma túy. Khoảng 20 giờ cùng ngày, Triệu Văn B1 gọi điện thoại cho Nông Văn T3 đến nhà để gặp Hoàng Văn N1 trao đổi mua bán ma túy, sau đó Triệu Văn B1 gọi điện thoại cho Hoàng Văn N1 lấy 10 bánh ma túy đến nhà Triệu Văn B1 để bán ma túy cho Nông Văn T3, một lúc sau Hoàng Văn N1 đem 10 bánh ma túy đến nhà Triệu Văn B1. Sau đó lực lượng chức năng đến kiểm tra, khám xét phát hiện và thu giữ 10 bánh ma túy trong buồng ngủ của Triệu Văn B1.

Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh, ghi lời khai Nông Văn T3 và Hoàng Văn N1.

- Nông Văn T3 khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 29/6/2021, Nông Văn T3 chỉ được đến nhà Triệu Văn B1 uống bia và xem bóng đá. Nông Văn T3 không thừa nhận hành vi đặt vấn đề tìm mua ma túy với Triệu Văn B1 và cũng không được trao đổi tìm mua ma túy với Triệu Văn B1, không biết và không liên quan đến hành vi mua bán trái phép ma túy của Triệu Văn B1; không biết Triệu Văn B1 và Hoàng Văn N1 có trao đổi gì khác không; tiến hành đối chất giữa Triệu Văn B1 và Nông Văn T3, Nông Văn T3 vẫn giữ nguyên lời khai, không được trao đổi mua bán ma túy như Triệu Văn B1 khai.

- Hoàng Văn N1 khai: Vào khoảng 20 giờ ngày 29/6/2021, Hoàng Văn N1 chỉ được đến nhà Triệu Văn B1 để xem bóng đá, khi Hoàng Văn N1 đến thì có gặp Nông Văn T3 đang cùng Triệu Văn B1 uống bia. Hoàng Văn N1 không thừa nhận đem ma túy đến nhà Triệu Văn B1 để trao đổi mua bán với Triệu Văn B1 và Nông Văn T3, không biết và không liên quan đến hành vi mua bán trái phép ma túy của Triệu Văn B1, không biết Triệu Văn B1 và Nông Văn T3 có trao đổi gì khác không; tiến hành đối chất giữa Triệu Văn B1 và Hoàng Văn N1, Hoàng Văn N1 vẫn giữ nguyên lời khai, không được trao đổi mua bán ma túy như lời Triệu Văn B1 khai.

Ngày 30/6/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn, Quyết định trưng cầu giám định dấu vết đường vân trên 10 bánh ma túy Heroin thu giữ tại nhà Triệu Văn B1.

Tại bản kết luận giám định số 321/GĐ-PC09 ngày 07/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Trên mẫu vật gửi giám định các vỏ lilon bọc ngoài của 10 (mười) bánh hình hộp chữ nhật cùng kích thước 15,5cm x 10cm x 2,5cm bên trong đều chứa chất bột màu trắng không phát hiện được dấu vết đường vân.

* Hành vi mua bán trái phép 02 bánh ma túy của Phùng Văn H1, Hứa Văn N2.

Ngoài ra Phùng Văn H1 còn khai nhận: Vào khoảng tháng 11 năm 2020 (âm lịch) Phùng Văn H1 còn cùng với Hứa Văn N2 mang 02 bánh ma túy Heroine lên cột mốc 1172 biên giới Việt Nam - Trung Quốc bán cho một người đàn ông Trung Quốc tên X. Nguồn ma túy là do Hứa Văn N2 mua, nếu Phùng Văn H1 bán được thì sẽ được trả tiền công là 5.000.000 đồng/bánh. Hứa Văn N2 cho Phùng Văn H1 số điện thoại của X, X và Phùng Văn H1 tự thỏa thuận giá bán 02 bánh là 6 vạn 8 NDT. 02 ngày sau, Hứa Văn N2 là người giấu 02 bánh ma túy trong áo khoác đang mặc đi cùng Phùng Văn H1 đến cột mốc biên giới 1172 đợi 30 phút thì thấy X một mình đi xe mô tô đến nhận túi ma túy, Hứa Văn N2 cầm tiền đến nhà Phùng Văn H1 cùng đếm thì thấy chỉ có 06 vạn mốt Nhân dân tệ, thiếu 7.000 Nhân dân tệ.

Căn cứ lời khai của Phùng Văn H1 và thông tin, tài liệu của Tổng đội phòng chống ma túy Công an tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc cung cấp về đầu mối vụ án ma túy do Công an thành phố Sủng Tả, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc đấu tranh thành công, xảy ra ngày 09/01/2021, tang vật thu giữ là 02 bánh ma túy Heroine, nguồn gốc ma túy do đối tượng người Việt Nam sử dụng số điện thoại 0084.345X06 cung cấp, qua xác minh xác định người sử dụng số điện thoại trên là Hứa Văn N2. Ngày 10/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã khởi tố bị can và ngày 11/7/2021 bắt bị can để tạm giam đối với Hứa Văn N2.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã quyết định: Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 40, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Triệu Văn B1. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Phùng Văn H1. Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Căn cứ Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Triệu Văn B1, Phùng Văn H1 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Triệu Văn B1 tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Phùng Văn H1 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt 29/6/2021. Tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HS-ST ngày 04/01/2022 Tòa án nhân dân huyện C1, tỉnh Lạng Sơn. Buộc bị cáo Phùng Văn H1 phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 21 (hai mươi mốt) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt 29/6/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Hứa Văn N2, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 04/5/2023, bị cáo Triệu Văn B1 có đơn kháng cáo cho rằng mình không mua bán ma túy, cơ quan điều tra không làm rõ được 10 bánh ma túy tại sao lại có trong nhà bị cáo và bị cáo mua từ ai, đề nghị Tòa án làm rõ bản chất sự thật của vụ án và minh oan cho bị cáo.

Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 23/QĐ-VKSLS-P2 ngày 09/5/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Phùng Văn H1 từ 20 năm tù lên Tù Chung thân.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Triệu Văn B1 thừa nhận 10 bánh ma túy Heroine là thu trong buồng ngủ của nhà bị cáo, nhưng bị cáo cho rằng số ma túy trên là của Hoàng Văn N1 đem đến nhưng N1 nói là đồ điện tử; bị cáo không biết và không liên quan đến 10 bánh ma túy trên; Cơ quan điều tra không chứng minh được ai mua ma túy, ai bán ma túy, không làm rõ được tại sao ma túy lại có trong nhà bị cáo và bị cáo mua ma túy của ai, hết bao nhiêu tiền và bán cho ai, đề nghị HĐXX làm rõ bản chất sự thật của vụ án và minh oan cho bị cáo.

Bị cáo Phùng Văn H1 thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như những lời khai ban đầu của bị cáo tại cơ quan điều tra. Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Căn cứ vật chứng thu giữ tại nhà Triệu Văn B1 là 10 bánh Heroine, kết luận giám định, biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, căn cứ bản tự khai, lời khai của Triệu Văn B1 tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ngày 29/12/2022 bị cáo B1 khai nhận là trung gian môi giới cho Hoàng Văn N1 bán trái phép 10 bánh Heroine cho Nông Văn T3 và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định: Ngày 29/6/2022, Triệu Văn B1 có hành vi tàng trữ trái phép 10 bánh Heroine có tổng khối lượng 3.332,590 gam mục đích để mua bán. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Triệu Văn B1 về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 4 Điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, không oan.

Bị cáo Phùng Văn H1 mặc dù tại phiên tòa sơ thẩm không thật sự thành khẩn nhận tội tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội đã cùng Hứa Văn N2 mua bán trái phép 02 bánh Heroine có tổng khối lượng trong khoảng từ 640 đến 760 gam. Ngoài ra, Phùng Văn H1 còn khai báo có mua bán trái phép chất ma túy với B1 nên đã tiến hành khám xét nhà B1 thu giữ được 10 bánh Heroine, bắt giữ được B1. Như vậy, từ lời khai tự thú tích cực hợp tác trong đấu tranh mở rộng vụ án của H1, đã bắt giữ được 02 bị cáo phạm tội đặc biệt nguy hiểm là Triệu Văn B1 và Hứa Văn N2. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc, đánh giá đúng tính chất, mức độ của tội phạm, đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo Phùng Văn H1 20 năm tù là mức hình phạt trong khung hình phạt là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đại diện Viện kiểm sát rút toàn bộ Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 23/QĐ- VKSLS-P2 ngày 09/5/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn với nội dung đề nghị tăng hình phạt đối với Phùng Văn H1 từ 20 năm lên Tù Chung thân.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Triệu Văn B1: Bị cáo Triệu Văn B1 và bị cáo Phùng Văn H1 không có sự bàn bạc trao đổi, bị cáo Triệu Văn B1 có nhiều lời khai khác nhau nhưng chưa được làm rõ; nguồn gốc ma túy do đâu mà có, tại hồ sơ có lời khai của bị cáo Triệu Văn B1 thể hiện có người Trung Quốc gọi điện cho bị cáo hẹn địa điểm nhận ma túy nhưng chưa làm rõ; bị cáo là người dân tộc sinh sống ở vùng kinh tế khó khăn nhận thức pháp luật hạn chế.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trong quá trình điều tra bị cáo Triệu Văn B1 có đơn khiếu nại đối với Bản Kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra. Cơ quan điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã có quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bác đơn khiếu nại của bị cáo Triệu Văn B1.

Về việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm đã tuân thủ đúng quy định Bộ luật tố tụng hình sự.

Về nội dung kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ các Điều 331, 332, 333, 336, 337 BLTTHS, kháng cáo của bị cáo Triệu Văn B1 và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn trong thời hạn, hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã rút toàn bộ kháng nghị đối với bị cáo Phùng Văn H1 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn. Do đó, HĐXX không xem xét đối với bị cáo Phùng Văn H1 và căn cứ vào quy định của pháp luật đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Phùng Văn H1.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Triệu Văn B1:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, lời khai của bị cáo, có đủ cơ sở xác định: Ngày 29/6/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn khám xét nơi ở của Triệu Văn B1 tại thôn NV, xã C2, huyện C1, tỉnh Lạng Sơn phát hiện thu giữ của Triệu Văn B1 10 bánh ma túy Heroin, có tổng khối lượng 3.332,590 gam, mặc dù bị cáo Triệu Văn B1 cho rằng bản thân không phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; 10 bánh ma túy thu giữ tại nhà bị cáo là của Hoàng Văn N1 đem đến nói là đồ điện tử; bị cáo không biết và không liên quan đến 10 bánh ma túy; Cơ quan điều tra không chứng minh được ai mua ma túy, ai bán ma túy, về vấn đề này tại phiên tòa sơ thẩm ngày 26/4/2023, bị cáo cũng trình bày và không thừa nhận hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra bị cáo tự mình viết bản tự khai, đọc và ký tên vào các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, thừa nhận hành vi phạm tội từ khi bị bắt ngày 29/6/2022 cho đến phiên tòa hình sự sơ thẩm ngày 29/12/2022, các bản ghi lời khai đều thể hiện tình trạng sức khỏe, nhận thức của bị cáo là bình thường, tỉnh táo, minh mẫn. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác như vật chứng thu giữ tại nhà bị cáo là 10 bánh Heroine, kết luận giám định, biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường (tại các BL 72-74, 83-85, 183-197, 366-369, 513-519). Bị cáo cho rằng Hoàng Văn N1 và Nông Văn T3 mới là người phạm tội, 10 bánh Heroine thu giữ trong nhà bị cáo là của N1, Cơ quan điều tra cũng đã lấy lời khai của N1 và T3 nhưng cả hai đối tượng này không thừa nhận lời khai của B1 mà đều khai được B1 mời đến nhà uống bia không biết, không liên quan đến việc mua bán 10 bánh Heroine thu giữ tại nhà B1. Cơ quan điều tra đã thực hiện đầy đủ các biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ nhưng không đủ căn cứ chứng minh hành vi mua bán ma túy của Hoàng Văn N1 và Nông Văn T3, tại phiên tòa sơ thẩm cũng đã tiến hành tranh tụng, đối chất nhưng vẫn không đủ căn cứ chứng minh hành vi phạm tội của N1 và T3.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước; ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân, bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Về nhân thân: Bị cáo Triệu Văn B1 có 01 tiền án tại Bản án số 66/2019/HS-ST ngày 20-9-2019 của Tòa án nhân dân huyện C1, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 tháng tù về tội Đánh bạc, chưa được xóa án tích nên bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra bị cáo đã khai báo thành khẩn về sau lại thay đổi lời khai nên được hưởng một phần tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế khó khăn nhận thức pháp luật hạn chế, do vậy được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tính chất, mức độ hành vi phạm tội nhưng do tổng khối lượng 3.332,590 gam ma túy là đặc biệt lớn, Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Triệu Văn B1 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Triệu Văn B1.

[8] Đối với Nông Văn T3, Hoàng Văn N1: Theo lời khai của Triệu Văn B1, Nông Văn T3 là người đặt vấn đề bảo Triệu Văn B1 tìm nguồn mua ma túy cho Nông Văn T3 để bán sang Trung Quốc; Hoàng Văn N1 là người mang 10 bánh ma túy đem đến cho Triệu Văn B1 để bán. Tuy nhiên, ngoài lời khai của Triệu Văn B1, không có tài liệu chứng cứ khác chứng minh, tiến hành đối chất Nông Văn T3, Hoàng Văn N1 không thừa nhận. Do vậy chưa đủ căn cứ để xử lý. Do đó, HĐXX cấp phúc thẩm tiếp tục kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.

[9] Từ những phân tích nêu trên, HĐXX đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Triệu Văn B1, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Phùng Văn H1 do đại diện Viện kiểm sát đã rút toàn bộ Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 23/QĐ-VKSLS-P2 ngày 09/5/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

[10] Do kháng cáo của bị cáo Triệu Văn B1 không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào Điều 348, Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Phùng Văn H1.

Các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo Phùng Văn H1 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 20/9/2023.

2. Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Triệu Văn B1. Giữ nguyên quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 40, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Triệu Văn B1 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Triệu Văn B1 tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Triệu Văn B1 phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Triệu Văn B1 được quyền gửi đơn xin ân giảm hình phạt tử hình lên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

479
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 724/2023/HS-PT

Số hiệu:724/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về