Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 16/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TU, TỈNH LC

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TU, tỉnh LC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2021/TLST- HS ngày 29 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đèo Văn H; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 01/01/1986 tại huyện TU, tỉnh LC;

Nơi cư trú: Bản M, xã KO, huyện TU, tỉnh LC; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đèo Văn L, sinh năm 1967 và bà: Lò Thị , sinh năm 1967; Có vợ là Lò Thị , sinh năm 1985 và có 03 con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 12/5/2011, Đèo Văn H bị Chủ tịch UBND tỉnh LC ra quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính và đã hết thời hạn được coi là bị xử lý vi phạm hành chính.

Ngày 29/11/2013, Đèo Văn H bị Tòa án nhân dân huyện TU, tỉnh LC áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 20, Điều 53 của Bộ luật hình sự xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 15/2013/HSST. Bị cáo chấp hành xong Bản án và đã được xoá án tích.

1 Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ hồi 10 giờ 30 phút ngày 21/10/2021, tạm giam từ ngày 30/10/2021, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Than Uyên, tỉnh LC. (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Mạnh Hùng – Là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh LC (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đèo Văn H là người nghiện chất ma túy. Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 21/10/2021, Đèo Văn H đi bộ từ nhà tại Bản M, xã KO, huyện TU, tỉnh LC sang bản Đán Én, xã Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Đến một lán ruộng thuộc bản Đán Én, xã Chiềng Lao, Đèo Văn H gặp một người đàn ông dân tộc Mông tự giới thiệu tên là “Páo” (H không rõ nhân thân, lai lịch), H hỏi mua Heroine của Páo thì Páo đồng ý và hỏi H có mua hồng phiến không nhưng H nói không có tiền, chỉ có 500.000 đồng, nếu có hồng phiến thì cho H xin. Nói xong, H đưa cho Páo 500.000 đồng, Páo đi vào lán ruộng rồi quay ra tay cầm 01 gói Heroine và cấu một ít đưa cho H sử dụng, sử dụng xong, Páo đưa cho H 01 gói Heroine cùng một viên hồng phiến (được gói chung bằng mảnh nilon màu trắng) và nói cho H một viên hồng phiến để sử dụng. Quá trình trao đổi, mua bán Heroine và hồng phiến chỉ có Đèo Văn H và “Páo” biết với nhau. Mua được Heroine, Đèo Văn H cầm trong lòng bàn tay trái và đi bộ quay về. Khi Đèo Văn H về đến nhà tại Bản M, xã KO, huyện TU, tỉnh LC thì bị lực lượng công an xã KO, huyện TU tiến hành kiểm tra, thấy lực lượng công an, Đèo Văn H đã thả gói Heroine xuống đất nhằm phi tang thì bị lực lượng Công an xã KO phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vật chứng thu giữ của Đèo Văn H là 01 gói Heroine có khối lượng 0,89 gam và 01 viên Hồng phiến có khối lượng 0,09 gam. Ngày 29/10/2021, Đèo Văn H bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Ngày 21/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU đã tiến hành trưng cầu người giám định Tư pháp để mở niêm phong, xác định khối lượng, trích các mẫu gồm: chất bột, màu trắng và 01 viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang Đèo Văn H để gửi giám định. Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 109/KLGĐ ngày 21/10/2021 của người giám định theo vụ việc kết luận: Số chất bột, màu trắng thu giữ của Đèo Văn H có khối lượng 0,89 gam; Viên nén màu hồng thu giữ của Đèo Văn H có khối lượng 0,09 gam. Tại bản Kết luận giám định số 816/GĐ-KTHS ngày 26/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LC kết luận: 01 (một) mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, loại: Heroine; 01 (một) mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, loại: Methaphetamine.

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 0,81 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu thu giữ của Đèo Văn H hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện TU, tỉnh LC.

Bản cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 28/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TU tỉnh LC truy tố bị cáo Đèo Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TU, tỉnh LC giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đèo Văn H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 21/10/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong chứa đựng 0,81 gam Heroine; 01 phong bì Công an huyện TU bên trong 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án , miễn cho bị cáo Đèo Văn H 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Đèo Văn H nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng và án phí đối với bị cáo. Tuy nhiên, về mục đích bị cáo mua ma túy về để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nguyên nhân phạm tội xuất phát từ việc hiểu biết pháp luật còn hạn chế, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đèo Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát và nhất trí với ý kiến của người bào chữa, không bổ sung lời bào chữa.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TU, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Người bào chữa đã thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Đèo Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Kết luận điều tra, bản Cáo trạng đã truy tố và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, như vậy có đủ cơ sở khẳng định:

Sáng ngày 21/10/2021, tại bản Đán Én, xã Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Đèo Văn H đã mua trái phép 01 gói Heroine và 01 viên hồng phiến với giá 500.000 đồng của một người không rõ lai lịch, mục đích để sử dụng. Hồi 08 giờ cùng ngày tại Bản M, xã KO, huyện TU Đèo Văn H bị Công an xã KO, huyện TU bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 0,89 gam Heroine và 0,09 gam Methaphetamine. Căn cứ Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy xác định Đèo Văn H tàng trữ tổng khối lượng ma túy là: 0,89 gam Heroine + 0,09 gam Methamphetamine = 0,98 gam. Như vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Đèo Văn H thuộc trường hợp quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo Đèo Văn H là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TU truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản áp dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước ta đối với các chất ma túy và làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương do vậy cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Đèo Văn H sinh ra tại huyện TU, tỉnh LC, bị cáo được bố mẹ nuôi ăn học hết lớp 02/12, trưởng thành kết hôn với chị Lò Thị Lả và có 03 con. Bị cáo nghiện ma túy và có nhân thân xấu, năm 2011 bị cáo đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục do có hành vi trộm cắp tài sản, năm 2013 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện TU xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã không lấy những bản án, quyết định trước đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội cho thấy ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đèo Văn H đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã KO, huyện TU, tỉnh LC là vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 612/QĐ- UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần thiết phải có mức án tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo nghề nghiệp trồng trọt, thu nhập không ổn định, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng còn lại của vụ án là 0,81 gam Heroine là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Như vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TU về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng đối với bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với ý kiến của Người bào chữa, đề nghị giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, vụ án có tính chất nghiêm trọng, bị cáo còn trẻ, bản thân mắc vào tệ nạn xã hội nghiện chất ma túy, cùng lúc sử dụng hai loại ma túy là Heroine và Methamphetamine và có nhân thân xấu. Bị cáo đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính và bị xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên bị cáo buộc phải có nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là bị nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ để răn đe, giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đèo Văn H là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc, tại phiên tòa bị cáo xin miễn án phí. Do đó, Hội đồng xét xử miễn cho bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo Đèo Văn H để đảm bảo thi hành án.

[10] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Đèo Văn H khai mua của một người đàn ông tên là “Páo” tại bản Đán Én, xã Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU đã tiến hành xác minh, kết quả xác minh tại bản Đán Én, xã Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La không có người nào tên là “Páo” như Đèo Văn H đã khai. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Đèo Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Đèo Văn H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 21/10/2021.

[2] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong chứa đựng 0,81 gam Heroine; 01 phong bì Công an huyện TU bên trong 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu.

(Tình trạng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31 tháng 12 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TU, tỉnh LC).

[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn cho bị cáo Đèo Văn H 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về