Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 159/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 159/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 161/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 160/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với:

Phan Ngọc T, sinh ngày: 04/9/1973 tại huyện V, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu X, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Ngọc V - sinh năm: 1942 và bà Vũ Thị V (đã chết); bị cáo có vợ là Hà Thị Minh N - sinh năm: 1975, có 03 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2022 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hà Thị Minh N, sinh năm: 1975. Nơi cư trú: Tiểu khu X, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 27/6/2022, tổ công tác Công an xã Đ làm nhiệm vụ tại bản T, xã Đ, huyện M tiến hành kiểm tra đối với Phan Ngọc T đang điều khiển xe máy BKS 26H5-5285. Qua kiểm tra, phát hiện Phan Ngọc T nuốt từ trong miệng xuống bụng 01 gói bằng nilon màu trắng, T khai nhận bên trong gói nilon màu trắng có 01 gói Heroine và 01 gói đựng 03 viên Methamphetamine (Hồng phiến). Tổ công tác đưa Phan Ngọc T đến Bệnh viện đa khoa M để các bác sỹ can thiệp y tế. Tại cơ sở y tế, các bác sỹ đã lấy ra từ trong dạ dày của Phan Ngọc T 01 gói nilon màu trắng bên trong có 01 gói nilon màu xanh đựng chất cục bột màu trắng nghi là Heroine và 01 gói nilon màu hồng đựng 03 viên nén màu hồng, trên bề mặt các viên có chữ WY nghi là Methamphetamine. Căn cứ hành vi vi phạm của Phan Ngọc T, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và dẫn giải Phan Ngọc T đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra làm rõ.

Ngày 27/6/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma tuý thu giữ của Phan Ngọc T như sau: 03 viên nén màu hồng có khối lượng 0,29 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định, mẫu có ký hiệu T1; Chất cục bột màu trắng có khối lượng 0,09 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định, mẫu có ký hiệu T2.

Tại Kết luận giám định số 1151/KL-KTHS ngày 29/6/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma tuý, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,29 gam loại Methamphetamine và 0,09 gam loại Heroine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phan Ngọc T khai nhận: Bản thân là người nghiện chất ma tuý. Khoảng 14 giờ ngày 27/6/2022, T điều khiển xe máy BKS 26H5-5285 đi đến bản C, xã Đ, huyện M để tìm mua ma tuý mang về sử dụng. Trên đường dân sinh của bản C, T gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 05 viên hồng phiến và 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T lấy 02 viên hồng phiến và một phần Heroine ra sử dụng. Số Heroine và 03 viên hồng phiến còn lại T gói vào mảnh nilon rồi dùng bật lửa hàn mép lại, sau đó ngậm gói ma tuý vào miệng, mục đích để nếu gặp lực lượng chức năng T sẽ nuốt gói ma tuý để trốn tránh sự kiểm tra. Khi T đang trên đường đi về đến khu vực bản T, xã Đ thì gặp tổ công tác Công an xã Đ kiểm tra, T đã nuốt gói ma tuý vào bụng thì bị phát hiện, bắt giữ. Đối với chiếc xe máy BKS 26H5-5285, quá trình điều tra xác định là tài sản chung của Phan Ngọc T và vợ là Hà Thị Minh N.

Tại phiên tòa bị cáo Phan Ngọc T trình bày ý kiến, giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hà Thị Minh N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại xe máy BKS 26H5-5285 cho chị quản lý sử dụng.

Cáo trạng số 127/CT-VKS ngày 23/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Phan Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Ngọc T từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tuyên giao trả cho chị Hà Thị Minh N quản lý, sử dụng 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA – WAVE, màu đỏ đen, BKS: 26H5 – 5285, sm: HC09E- 6178480, sk: RLHHC09076Y178446, 01 gương chiếu hậu, cao su để chân bên trái không có, cao su để chân bên phải rách và 01 đăng ký mô tô, xe máy số 0057906 mang tên Phan Ngọc T.

Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc phong bì mặt trước ghi: Vật chứng vụ Phan Ngọc T, bắt ngày 27/6/2022, bên trong có 03 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 chiếc phong bì mặt trước ghi: Test thử ma túy đối với Phan Ngọc T, ngày 27/6/2022, kq: Dương tính.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án. Bị cáo Phan Ngọc T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hà Thị Minh N nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Phan Ngọc T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị cáo bị tổ công tác Công an xã Đ thu giữ vào ngày 27/6/2022 có nguồn gốc mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết với giá 200.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an xã Đ lập vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 27/6/2022; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản kết luận giám định số 1151/KL-KTHS ngày 29/6/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma tuý, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,29 gam loại Methamphetamine và 0,09 gam loại Heroine”. Heroine nằm trong danh mục I, số thứ tự 9; Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT: 323, tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Phan Ngọc T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 27/6/2022 bị cáo Phan Ngọc T đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 0,29 gam Methamphetamine và 0,09 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Căn cứ Điều 4 Chương II Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma tuý tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng của các chất ma tuý Methamphetamine và Heroine thu giữ của Phan Ngọc T là 0,29 gam + 0,09 gam = 0,38 gam. Do đó, hành vi của bị cáo Phan Ngọc T đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Phan Ngọc T không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố là ông Phan Ngọc Vượng được Nhà nước tặng Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất. Vì vậy, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản gì có giá trị, là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu HONDA – WAVE, màu đỏ đen, BKS: 26H5 – 5285, sm: HC09E- 6178480, sk: RLHHC09076Y178446 và 01 đăng ký mô tô, xe máy số 0057906 mang tên Phan Ngọc T, bị cáo sử dụng chiếc xe máy trên làm phương tiện đi mua ma túy. Xét thấy chiếc xe máy BKS 26H5-5285 là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Phan Ngọc T, vợ là Hà Thị Minh N. Việc bị cáo sử dụng xe máy đi mua ma túy chị Hà Thị Minh N không biết và không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo. Chiếc xe máy BKS 26H5-5285 là phương tiện đi lại duy nhất của gia đình, do đó cần tuyên trả chiếc xe máy BKS 26H5-5285 và đăng ký xe máy cho chị Hà Thị Minh N quản lý sử dụng.

Đối với 01 chiếc phong bì mặt trước ghi: Vật chứng vụ Phan Ngọc T, bắt ngày 27/6/2022, bên trong có 03 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 chiếc phong bì mặt trước ghi: Test thử ma túy đối với Phan Ngọc T, ngày 27/6/2022, kq:

Dương tính. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Phan Ngọc T như T khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) phù hợp với khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Thời hạn tạm giam còn lại của bị cáo còn dưới 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phan Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phan Ngọc T 15 (Mười lăm) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27/6/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tuyên giao trả cho chị Hà Thị Minh N quản lý, sử dụng 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA – WAVE, màu đỏ đen, BKS: 26H5 – 5285, sm: HC09E- 6178480, sk: RLHHC09076Y178446, 01 gương chiếu hậu, cao su để chân bên trái không có, cao su để chân bên phải rách và 01 đăng ký mô tô, xe máy số 0057906 mang tên Phan Ngọc T.

Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc phong bì mặt trước ghi: Vật chứng vụ Phan Ngọc T, bắt ngày 27/6/2022, bên trong có 03 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 01 chiếc phong bì mặt trước ghi: Test thử ma túy đối với Phan Ngọc T, ngày 27/6/2022, kq: Dương tính.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phan Ngọc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 159/2022/HS-ST

Số hiệu:159/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về