Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 07/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2021/ TLST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST – HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn N; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1979 tại huyện M, tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKNKTT: Bản H, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản H, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không; Giới tính: Nam; Dân tộc: Khơ mú; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Lò Văn T, sinh năm 1942 và bà Lò Thị D (đã chết); Bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Lò Thị N, sinh năm 1977 và có 04 người con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2021 cho đến ngày xét xử, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn N: Ông Hoàng Tiến L, sinh năm 1955; Luật Sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (Có mặt tại phiên tòa).

Người phiên dịch cho bị cáo Lò Văn N: Ông Lường Văn B, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: Bản B, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên (Có mặt tại phiên tòa). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lò Thị N, sinh năm 1977.

Nơi cư trú: Bản H, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi phạm tội của Lò Văn N được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại bản T, xã Ẳ, huyện M, Lò Văn N đã có hành vi tàng trữ 0,23 gam Heroine và 0,03 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 27/9/2021 Lò Văn N điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius, màu cam đen, BKS X đi sang bản C, xã Ẳ, huyện M mua ma túy về sử dụng. Khi đến đoạn đường Quốc lộ 279, thuộc địa phận bản C, xã Ẳ thì N gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Thái, không quen biết 03 gói nhỏ Heroine được gói bằng mảnh giấy màu trắng - xanh và ½ viên Hồng phiến (Methamphetamine) được gói bằng mảnh ni lông màu hồng với giá 150.000đ. Sau khi mua được ma túy Lò Văn N cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy về nhà. Đến 12 giờ 00 phút cùng ngày khi N về đến bản T, xã Ẳ, huyện M thì gặp Tổ Công tác Công an xã Ẳng Tở phối hợp với Đội cảnh sát giao thông số 1 thuộc Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Điện Biên đang làm nhiệm vụ yêu cầu N để kiểm tra. Tổ Công tác đã yêu cầu N giao nộp ma túy, N đã tự giác lấy toàn bộ số ma túy đang cất giấu trong túi quần bên phải ra giao nộp. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong thu giữ 0,23 gam Heroine và 0,03 gam Methamphetamine.

Ngày 29/9/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Ảng quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can đối với Lò Văn N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại biên bản niêm phong vật chứng hồi 13 giờ 00 phút ngày 27/9/2021 thì vật chứng thu giữ của Lò Văn N là 03 gói chất bột màu trắng được gói bằng mảnh giấy màu trắng – xanh nghi là Heroine và ½ viên màu hồng có ký hiệu WY được gói trong mảnh ni lông màu hồng nghi là Methamphetamine (Hồng phiến).

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 27/9/2021 thì 03 gói chất bột màu trắng được gói bằng mảnh giấy màu trắng – xanh nghi là Heroine có khối lượng là: 0,23 gam và ½ viên màu hồng có ký hiệu WY được gói trong mảnh ni lông màu hồng nghi là Methamphetamine có khối lượng là: 0,03 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 1135/GĐ – PC 09, ngày 07/10/2021 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn N gồm:

- 0,23 gam chất bột màu trắng là ma túy: Loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, mục IA, danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018;

- 0,03 gam viên nén màu hồng là ma túy: Loại Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy có số thứ tự: 323, Mục IIC, danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Cáo trạng số: 95/CT - VKSMA, ngày 15/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố bị cáo Lò Văn N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Lò Văn N từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điểm a, b khoản 1 Điều 46; Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điểm a Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,14 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án.

- Tịch thu để sung ngân sách nhà nước ½ giá trị xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius, màu cam đen, BKS X. Trả lại cho chị Lò Thị N người sống chung như vợ chồng với bị cáo ½ giá trị xe.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí đề nghị miễn án phí HSST cho bị cáo Lò Văn N.

* Nội dung bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo Lò Văn N nhất trí với nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Lò Văn N về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, khi được tổ công tác yêu cầu kiểm tra bị cáo đã tự giác giao nộp chất ma túy đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS đề nghị Hội đồng xét xử khi Quyết định hình phạt xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo mức đề nghị của đại diện viện kiểm sát.

Vật chứng: Trả lại cho chị Lò Thị N ½ giá trị xe moto.

Về án phí: Bị cáo Lò Văn N là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo Lò Văn N nhất trí nội dung bản luận cứ của người bào chữa.

Lời nói sau cùng, Lò Văn N nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nội dung vụ án: Hồi 12 giờ 00 phút ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại bản T, xã Ẳ, huyện M, Lò Văn N đã có hành vi tàng trữ 0,23 gam Heroine và 0,03 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng.

Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản niêm phong tài liệu đồ vật và biên bản xác định khối lượng ngày 27/9/2021 và kết luận giám định số:

1135/GĐ – PC 09, ngày 07/10/2021 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, cũng như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 15 phút ngày 27/9/2021 đối với Lò Văn N.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lò Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết định khung hình phạt: Khối lượng ma túy thu giữ của Lò Văn N là 0,23 gam Heroine và 0,03 gam Methamphetamine. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ - CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng hai chất ma túy được cộng vào để làm căn cứ truy tố, xét xử đối với bị cáo là 0,23gam + 0,03 gam = 0,26 gam. Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ ở trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù.

[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện M, tỉnh Điện Biên không được đi học ở nhà lao động sản xuất. Đến tuổi trưởng thành sống chung như vợ chồng với chị Lò Thị N và có với nhau 04 người con. Năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích. Bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy đã bị kết án, không coi đó là bài học rút kinh nghiệm cho bản thân, mà còn lao vào con đường phạm tội, nên có nhân thân không tốt. Bởi vậy Hội đồng xét xử cần đưa ra mức hình phạt thật nghiêm khắc, để cải tạo giáo dục bị cáo và cũng là cơ hội để bị cáo cai nghiện ma túy. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; khi được tổ công tác yêu cầu kiểm tra bị cáo đã tự giác giao nộp chất ma túy nên Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống, xã hội một thời gian để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, sau này trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 của BLHS.

Theo khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa cho bị cáo xét thấy phù hợp nên hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[6]. Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng: 0,14 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi gửi mẫu giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius, màu cam đen, BKS X (số khung RLCUE3240KY230634, số máy không có), không có gương chiếu hậu bên phải, xe đã qua sử dụng là phương tiện bị cáo N đã dùng đi mua ma túy cần tịch thu để sung ngân sách nhà nước ½ giá trị. Chị Lò Thị N người sống chung như vợ chồng với bị cáo không biết bị cáo N sử dụng xe mô tô vào việc mua ma túy nên trả lại cho chị ½ giá trị xe.

Về nguồn gốc số Heroine, Methamphetamine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên, địa chỉ ở đâu vào ngày 27/9/2021. Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng nên HĐXX không xem xét.

[8]. Về án phí: Bị cáo Lò Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nhưng bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8]. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9]. Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn N phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ: Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Lò Văn N 01 (Một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 9 năm 2021.

2. Vật chứng: Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điểm a Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,14 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi gửi mẫu giám định.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước ½ giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius, màu cam đen, BKS X (số khung RLCUE3240KY230634, số máy không có), không có gương chiếu hậu bên phải, xe đã qua sử dụng, đăng ký xe mang tên Lò Văn N. Trả lại cho chị Lò Thị N người sống chung như vợ chồng với bị cáo ½ giá trị xe.

(Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/11/2021).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn N.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể kể từ ngày tuyên án về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2021/HS-ST

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về