Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 01/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 3 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Toà án nhân dân tỉnh B, điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh B, Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh B xét xử trực tuyến, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C, sinh năm 1997; Tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: Thôn X, xã X, huyện Hiệp Hoà, tỉnh B. Nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1975 và bà Ngô Thị M, sinh năm 1974; Vợ bị cáo: La Thị Huyền T, sinh năm 1997; bị cáo có 02 con (con lớn sinh năm 2021, con nhỏ sinh năm 2023); Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có. Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt).

* Người chứng kiến:

- Anh Diêm Văn Ph, sinh năm 1997 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn X, xã X, huyện Hiệp Hòa, tỉnh B.

- Ông Trần Đình Lập, sinh năm 1954 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố M, thị trấn T, huyện Hiệp Hòa tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 40 phút ngày 05/01/2023, tại Trung tâm y tế huyện Hiệp Hoà thuộc tổ dân phố số 3, thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hoà, tỉnh B, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Hiệp Hòa phối hợp với Công an thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh B bắt quả tang Nguyễn Văn C, sinh năm 1997 ở Thôn X, xã X, huyện Hiệp Hoà, tỉnh B đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu giữ tại túi quần phải Công đang mặc: 02 (hai) túi nilon màu trắng, một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ trong đó:

+ 01 (một) túi nilon chứa: 09 (chín) túi nilon màu trắng, một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh bên trong có 01 (một) viên nén màu hồng đỏ và các tinh thể màu trắng.

+ 01 (một) túi nilon chứa: 04 (bốn) túi nilon màu trắng một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma tuý và các viên nén màu hồng đỏ nghi là ma tuý.

- Thu giữ tại túi áo trái áo khoác Công đang mặc: 01 (một) đoạn ống nhựa màu vàng, được hàn kín hai đầu bên trong chứa các viên nén màu hồng đỏ nghi là ma tuý; 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma tuý.

- Thu giữ 01 túi giả da màu đen, kẻ karô của Công đang đeo trước ngực, bên trong có: 01 (một) coóng màu trắng; 03 (ba) đoạn ống nhựa, đều được hàn kín hai đầu (trong đó: hai đoạn màu hồng, một đoạn màu vàng) bên trong đều chứa các viên nén màu hồng đỏ nghi là ma tuý; 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma tuý. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong toàn bộ số vật chứng nghi là ma tuý trong 01 phong bì ký hiệu “QT” (Bút lục 14-18).

Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn C, kết quả: Không thu giữ gì.

Tiến hành kiểm tra việc sử dụng chất ma tuý đối với Công, kết quả: Công dương tính với chất ma tuý.

Tại Kết luận giám định số 58/KL-KTHS ngày 10/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận:

* Trong 01 (một) phong bì ký hiệu "QT" đã được niêm phong gửi giám định:

- Trong 01 (một) túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ:

+ Chất tinh thể màu trắng (đựng trong 09 (chín) túi ni lon màu trắng, một đầu mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh) đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,941 gam, loại Methamphetamine.

+ 01 (một) viên nén màu hồng đỏ và chất tinh thể màu trắng (đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh) đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,185 gam, loại Methamphetamine.

- Trong 01 (một) túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ:

+ Chất tinh thể màu trắng (đựng trong 04 (bốn) túi ni lon màu trắng, một đầu mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh) đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,584 gam, loại Methamphetamine.

+ Các viên nén màu hồng đỏ đều là ma túy, có tổng khối lượng 1,339 gam, loại Methamphetamine.

- Trong 01 (một) đoạn ống nhựa màu vàng được hàn kín hai đầu:

Các viên nén màu hồng đỏ đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,960 gam, loại Methamphetamine.

- Trong 01 (một) túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh: Chất tinh thể màu trắng là ma túy, có tổng khối lượng 0,333 gam, loại Methamphetamine.

- Trong 01 (một) túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ: Chất tinh thể màu trắng là ma túy, có tổng khối lượng 0,907 gam, loại Methamphetamine.

- Trong 03 (ba) đoạn ống nhựa đều được hàn kín hai đầu (trong đó có 02 (hai) đoạn màu hồng và 01 (một) đoạn màu vàng): Các viên nén màu hồng đó đều là ma túy, có tổng khối lượng 2,880 gam, loại Methamphetamine (Bút lục 20-21).

Quá trình điều tra Nguyễn Văn C khai nhận như sau: Do thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy nên khoảng 18 giờ ngày 04/01/2023, Công thuê xe ô tô taxi đi đến khu vực gần Cầu Trang thuộc thị trấn Bắc Lý, huyện Hiệp Hòa thì gặp một người tên T (không rõ tuổi, địa chỉ). Tại đây, Công đưa cho T 6.000.000 đồng và nhờ T mua hộ ma tuý. T cầm tiền rồi đi khoảng 30 phút thì quay lại đưa cho Công 01 túi nilon màu đen chứa ma túy. Công nhận ma túy rồi đi về Trung tâm y tế huyện Hiệp Hòa kiểm tra thấy bên trong túi nilon màu đen có: 04 (bốn) đoạn ống nhựa đều được hàn kín hai đầu (trong đó: 02 đoạn màu hồng, 02 đoạn màu vàng), bên trong mỗi đoạn đều chứa 10 viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến; 04 túi ni lon trong đó: 02 túi đựng ma túy đá; 01 túi đựng các viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến và 04 túi nilon chứa ma túy đá; 01 túi đựng 09 túi nilon chứa ma túy đá và 01 túi nilon chứa ma túy đá cùng 01 viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến. Sau khi kiểm tra, Công vứt túi nilon màu đen và cất giấu ma túy trong người. Đến 12 giờ 40 phút ngày 05/01/2023 thì Công bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Về vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì thư niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 túi giả da màu đen; 01 coóng màu trắng là công cụ, phương tiện Công sử dụng để tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuý được nhập kho vật chứng để xử lý.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Hiệp Hòa, tỉnh B bị cáo Nguyễn Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS-HH ngày 02 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa và một số tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo thừa nhận lời khai của họ là đúng.

Đại diện Viện sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh B giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Nguyễn Văn C từ 05 năm 06 tháng đến 05 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 05/01/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo .

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 túi giả da màu đen, 01 coóng màu trắng.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn C nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn C một lần nữa đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được đưa ra xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 40 phút, ngày 05/01/2023 Nguyễn Văn C, sinh năm 1997 đang có hành vi tàng trữ trái phép 8,129 gam ma tuý Methamphetamine để sử dụng thì Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Hiệp Hòa, tỉnh B phối hợp với Công an thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh B bắt quả tang tại Trung tâm y tế huyện Hiệp Hoà, tỉnh B. Hành vi tàng trữ trái phép 8,129 gam ma tuý của Nguyễn Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh B truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Chỉ vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất biệt dược gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội. Từ tệ nạn ma túy làm nảy sinh nhiều loại tội phạm khác, gây nhức nhối cho toàn xã hội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự và có hình phạt tù tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[5]. Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi xem xét, quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6]. Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7]. Xét về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh của Cơ quan điều tra cho thấy. Bị cáo không có tài sản riêng, không có thu thập ổn định; bị cáo là đối tượng nghiệm ma túy. Do vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Về đối tượng tên T là người bị cáo khai đã nhờ T mua ma túy hộ cho bị cáo và người lái taxi đưa bị cáo đi mua ma túy. Tuy nhiên, bị cáo không biết rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được danh tính người có tên T và người lái taxi ở đâu nên không có căn cứ để xử lý.

[9]. Về vật chứng của vụ án:

- 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ;

- Đối với 01 túi giả da màu đen, 01 coóng màu trắng là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng để tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuý nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Nguyễn Văn C 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 05/01/2023.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 túi giả da màu đen và 01 coóng màu trắng.

(Toàn bộ đặc điểm vật chứng theo quyết định chuyển vật chứng số 11/QĐ-VKS-HH ngày 02 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/02/2023 giữa Công an huyện Hiệp Hòa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa, tỉnh B).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2023/HS-ST

Số hiệu:14/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về