Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2021/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Đăng K. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 23 tháng 10 năm 1961 tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Tiểu khu M, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Trình độ học vấn: 03/10. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ ĐTĐP: Không. Con ông: Trần Đ và bà Bùi Thị Đ. Bị cáo có vợ là Vũ Thị T, sinh năm 1961. Bị cáo có 04 con (lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1992).

Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Về nhân thân:

- Ngày 19/9/1999, Trần Đăng K bị công an Mai Sơn bắt về hành vi chống người thi hành công vụ, đã bị xử phạt hành chính.

- Ngày 09/6/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xử phạt tù 08 tháng về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 53/HSST.

- Ngày 28/10/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xử phạt tù 26 tháng về tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo Bản án số 07/HSST.

- Ngày 07/7/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xử phạt tù 28 tháng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 42/HSST.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/8/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị T, sinh năm 1961. Địa chỉ: Tiểu khu M, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 13/8/2021, Trần Đăng K mang theo 420.000VNĐ điều khiển xe máy Honda Spacy màu trắng biển kiểm soát 26H3- 5979 đi từ nhà đến khu vực đường dân sinh bản Nong Mòn, xã C để tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây, K hỏi và mua ma túy của một người phụ nữ đứng ven đường được 01 gói nilon màu xanh chứa nhiều viên nén màu hồng và 01 gói bằng nilon màu xanh chứa Heroine với giá 420.000VNĐ. Sau đó, K cầm ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy đi được khoảng 500m thì bị tổ công an xã C yêu cầu kiểm tra. K đã làm đổ xe máy xuống đường và làm rơi gói ma túy tại vị trí mặt nạ dưới đầu xe máy. Tổ công tác đã phát hiện bắt quả tang thu giữ vật 01 gói nilon màu xanh có 21 viên nén màu hồng trên về mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, nghi là Methamphetamine và 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa chất bột nén màu trắng nghi là Heroine. K đã khai nhận các gói trên là ma túy của K, mục đích tàng trữ để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong gói vật chứng trên và 01 xe moto hiệu Honda Spacy màu trắng biển kiểm soát 26H3-5979.

Qua cân tịnh 02 gói vật chứng thu giữ của Trần Đăng K xác định khối lượng vật chứng là: Tổng khối lượng 21 viên nén màu hồng có khối lượng là 1,92gam lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M1; số chất bột màu trắng có khối lượng là 0,30 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M2 trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định 1424/KLMT ngày 18/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là ma tuý; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,92 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu M2 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,30 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,92 gam, loại Methamphetamine và 0,30 gam, loại Heroine”.

Do có hành vi nêu trên, tại Bản cáo trạng số 91/CT-VKSMS ngày 15/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Trần Đăng K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017): Tuyên bố bị cáo Trần Đăng K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Trần Đăng K từ 24 tháng đến 28 tháng tù. Không áp dụng hình bổ sung đối với các bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong trong đựng phong bì niêm phong mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M2 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng M1 = 1,29 gam; M2 = 0,1gam; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh nilon màu xanh gói ma túy ban đầu.

Trả lại 01 chiếc xe moto hiệu Honda Spacy màu trắng biển kiểm soát 26H3-5979, số khung 0101127, số máy 5010217 cho bà Vũ Thị T.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã khai nhận: ngày 13/8/2021, Trần Đăng K đã mua 1,92 gam, loại Methamphetamine và 0,30 gam, loại Heroine để sử dụng cho bản thân và bị tổ công tác công an xã C kiểm tra và bắt quả tang. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 thì tổng khối lượng chất ma túy khi bắt quả tang bị cáo là 2,22 gam.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Đăng K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. [3] Xét về tính chất:

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm về hình sự, biết rõ chất ma túy là loại hàng Nhà nước nghiêm cấm sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận chuyển và lưu hành trên thị trường, nhưng bị cáo vẫn cố tình tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử cân nhắc hình phạt phù hợp với tính chất và tương xứng với khối lượng ma túy bị cáo bị thu giữ, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Mặc dù không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo có nhân thân xấu. Ngày 19/9/1999, bị công an Mai Sơn bắt về hành vi chống người thi hành công vụ, đã bị xử phạt hành chính. Ngày 09/6/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xử phạt tù 08 tháng về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 53/HSST. Ngày 28/10/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xử phạt tù 26 tháng về tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo Bản án số 07/HSST. Ngày 07/7/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xử phạt tù 28 tháng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 42/HSST.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phần nào đối với các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh, bị cáo là người cao tuổi, không có tài sản gì có giá trị, không xem xét hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì thư niêm phong trong đựng phong bì niêm phong mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M2 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng M1 = 1,29 gam; M2 = 0,1gam; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh nilon màu xanh gói ma túy ban đầu. Đây là vật nhà nước cấm lưu hành và liên quan đến hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 xe moto hiệu Honda Spacy màu trắng, biển kiểm soát 26H3-5979. Đây là tài sản bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa bị cáo Trần Đăng K và vợ Vũ Thị T. Bà Tư không biết việc bị cáo sử dụng tài sản để đi mua ma túy và có nguyện vọng xin lại tài sản. Do đó, cần trả lại cho bà Vũ Thị T.

[7] Các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người phụ nữ đường đứng ven đường (không biết tên, địa chỉ) ở khu vực Bản Nong Mòn, xã C, việc mua bán không ai biết và chứng kiến. Do đó, Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn không có căn cứ để điều tra, xác minh mở rộng vụ án.

Về án phí: Bị cáo đều là người cao tuổi nên cần miễn án phí hình sự cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Trần Đăng K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Trần Đăng K 25 (hai mươi lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 14/8/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong theo quy định trong chứa 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở, 02 túi nilon màu tráng bên trong chứa chất bột màu trắng và màu hồng thuộc mẫu giám định ký hiệu M1 và M2 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng là M1 = 1,29 gam Methamphetamine; M2 = 0,10 gam Heroine; 01 phong bì niêm phong bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh nilon màu xanh gói ma túy ban đầu.

Trả lại 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Spacy, sơn màu trắng, mang biển kiểm soát 26H3-5979, số khung 0101127, số máy 5010217, đã qua sử dụng cũ cho bà Vũ Thị T.

(Số lượng, khối lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng, tài sản theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 20/BB-CCTHADS ngày 24/11/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Báo cho các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2021/HS-ST

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về