Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 130/2019/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 130/2019/HS-ST NGÀY 08/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 125/2019/HS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 124/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Thế Q, sinh ngày 30/11/1981 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Đ, xã Y, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh H và bà Bùi Thị C; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 346/2007/HSST ngày 10/8/2007, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt Nguyễn Thế Q 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/02/2009, án phí hình sự thực hiện xong ngày 11/9/2008, tính đến ngày phạm tội đã được xóa án tích; bị cáo bị bắt tạm tạm giam từ ngày 17/8/2019 cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 27/6/2019, tại khu 10, phường Đ, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tổ công tác Công an phường Đ, thành phố Vĩnh Yên phát hiện và lập biên bản sự việc quả tang Nguyễn Thế Q có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm có: Nguyễn Thế Q tự nguyện nhả trong miệng ra 04 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng, Q khai là ma túy Heroine vừa mua được với giá 400.000đ, vật chứng được niêm phong có ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giám định số: 1226/KLGĐ ngày 30/6/2019, Phòng Kỹ hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý lẫn tạp chất, loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi đến giám định là 0,6423 gam. Khối lượng Heroine trong 0,6423 gam mẫu là 0,1753g.

Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, Nguyễn Thế Q khai nhận: Khoảng 9 giờ 10 phút ngày 27/6/2019, do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên Q một mình đi xe ô tô buýt từ nhà ở thôn Đ, xã Y, huyện Vĩnh Tường đến thành phố Vĩnh Yên để mua ma tuý. Tại đây, qua giới thiệu của bạn bè nghiện ngoài xã hội, Q đã đi bộ đến khu vực ngõ 9 đường N, thuộc khu 10, phường Đ và mua được của một người trong phòng trọ không biết tên tuổi, địa chỉ, nam hay nữ 04 gói ma tuý Heroine với giá 400.000đ (trao đổi mua bán qua khe cửa sổ). Sau khi mua được ma tuý, Q ngậm 04 gói ma túy vào miệng rồi đi theo đường cũ về nhà để sử dụng thì bị Công an phát hiện và lập biên bản sự việc quả tang như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số: 129/CT-VKSTPVY ngày 23/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Thế Q khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế Q vẫn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên (bút lục 19 và từ bút lục 48- 51).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thế Q từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 0,4279 gam ma túy và toàn bộ bao gói ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Thế Q tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 27/6/2019, tại khu 10, phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Nguyễn Thế Q đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên phát hiện và lập biên bản quả tang. Tang vật thu giữ là 04 gói giấy nhỏ bên trong có chứa các cục màu trắng, được giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine, khối lượng 0,6423 gam. Khối lượng Heroine trong 0,6423 gam mẫu là 0,1753 gam.

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Thế Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc Q quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 05 năm tù nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị kết án về hành vi cùng loại tội, mặc dù tiền án đó đã được xóa án tích nhưng cũng chứng tỏ bị cáo không ăn năn hối cải, sữa chữa lỗi lầm để hoàn lương. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, hiện tại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, việc cho bị cáo được cải tạo tại địa phương sẽ không có tác dụng giáo dục nói chung, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản và nghề nghiệp nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm Q, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Đối với người có liên quan đến vụ án gồm: Người bán ma túy cho Q. Do Q không biết họ, tên, địa chỉ, giới tính nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào có căn cứ sẽ đề cập xử lý sau là đúng pháp luật.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma túy và bao gói ma túy hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy theo quy định tại khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thế Q 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 17/8/2019).

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,4279 gam ma túy và bao gói ma túy hoàn lại sau giám định (Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 23/10/2019).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Thế Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có Q kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 130/2019/HS-ST

Số hiệu:130/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về