Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 123/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 123/2023/HS-ST NGÀY 10/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 116/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh H, sinh năm 1982 tại Hòa Bình; tên gọi khác: không; nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Khu 10, thị trấn C, huyện L, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trung T (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1957; vợ là Phùng Thị Thu T1, sinh năm 1987 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2011; tiền án: Ngày 16/5/2018, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/5/2019); Ngày 7/5/2020 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/10/2020); Ngày 24/12/2021, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/10/2022); tiền sự: không; nhân thân: Ngày 05/01/2020, Công an thị trấn C, huyện L, tỉnh Hòa Bình ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”; ngày 20/4/2021, UBND thị trấn C, huyện L, tỉnh Hòa Bình ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” thời gian 03 tháng. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15 tháng 8 năm 2023 đến ngày 21 tháng 8 năm 2023 chuyển tạm giam đến nay; có mặt.

* Người làm chứng: Anh Lữ Tiến T2, sinh năm 1987; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 15/8/2023, Nguyễn Thanh H đi xe ô tô bus từ nhà đến thành phố P mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến khu vực cầu mới thuộc tổ dân phố H, phường T, thành phố P thì H xuống xe đi bộ, H gặp một người đàn ông khoảng 35 tuổi (không biết tên, địa chỉ cụ thể), bảo mua hộ ma túy, H lấy số tiền 140.000đ đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền. Khoảng 14 giờ cùng ngày, người đàn ông điều khiển xe mô tô (không rõ biển kiểm soát) chở H đến cầu L thuộc phường L, thành phố P thì dừng xe bảo H xuống đợi rồi điều khiển xe mô tô đi, khoảng 20 phút sau quay lại đưa cho Hà 01 gói giấy bạc màu vàng. H cầm gói giấy bạc mở ra xem thấy bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, biết là ma túy nên H gói lại rồi cất vào túi quần bên phải. Sau đó người đàn ông chở H đến tổ dân phố M, phường L, thành phố P thì bị tổ công tác Công an phường L yêu cầu dừng xe kiểm tra. Khi H vừa xuống xe thì người đàn ông tăng ga bỏ chạy thoát còn H bị giữ lại. Tại chỗ H tự giáo giao nộp 01 gói giấy bạc màu vàng và khai nhận là ma túy vừa mua, cất giữ, mục đích để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa Nguyễn Thanh H cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01.

Ngày 16/8/2023 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Thanh H tại khu M, thị trấn C, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 554/PC09-MT ngày 19/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,309 gam, loại Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 125/CT-VKS-PL ngày 18/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Thanh H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Nguyễn Thanh H theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến thay đổi, bổ sung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định cùng bao gói. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả, không tranh luận, bào chữa và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt ở mức thấp nhất để bị cáo sớm có cơ hội trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến phản đối hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt và công bố lời khai theo đúng quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: bị cáo Nguyễn Thanh H có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng phù hợp với lời khai của người làm chứng, bản kết luận của cơ quan giám định về ma túy cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy HĐXX có đủ chứng cứ buộc tội kết luận:

Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 15/8/2023 tại tổ dân phố M, phường L, Nguyễn Thanh H đang cất giấu trái phép 0,309 gam chất ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị Công an phường L, thành phố P phát hiện bắt quả tang. Bị cáo đang có 03 tiền án, trong đó bản án năm 2021 bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm”, do đó lần phạm tội này của Nguyễn Thanh H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, có một tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hai tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”; có một tiền sự về trộm cắp tài sản và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại phường 3 tháng về hành vi“Sử dụng trái phép chất ma túy”(đều đã xóa tiền sự), nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật, khó cải tạo bản thân.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố đẻ tham gia Cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Phủ Lý, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cần tuyên mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với chính bị cáo và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm chung trong cộng đồng.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng không có mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

Đối với toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Các tình tiết khác của vụ án:

Đối với nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Nguyễn Thanh H khai số ma túy trên là của một người đàn ông khoảng 35 tuổi không biết tên, địa chỉ cụ thể; Hà gặp tại khu vực cầu mới thuộc tổ dân phố H, phường T, thành phố P đã mua na túyvà đưa cho H. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an phường T, thành phố P xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này. Ngoài lời khai của Nguyễn Thanh H không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15 tháng 8 năm 2023.

2/ Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong số 554/KTHS, mặt trước của phong bì niêm phong ghi “mẫu vật hoàn trả số QT01”, tại mép dán mặt sau của phong bì niêm phong có 02 (hai) chữ ký, 01 (một) chữ ký đóng dấu chức danh Giám định viên Nguyễn Thị Lan H, 01 (một) chữ ký ghi rõ họ tên Trần Quang T; 03 (ba) dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam”.

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 19/10/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh H phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 123/2023/HS-ST

Số hiệu:123/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về