TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 12/2024/HS-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 3 năm 2024, tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Cư M’gar mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2024/TLST-HS, ngày 23 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 09/2024/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Văn N; Sinh ngày 19/02/2003, tại tỉnh Đắk Lắk;
Nơi cư trú: Thôn A, xã Q, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn D, sinh năm 1975; Con bà: Tạ Thị B, sinh năm 1980; Bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án: Không; Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/12/2023 đến ngày 27/12/2023 thì chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cư M’gar; Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Văn N là người thường sử dụng ma túy, qua các mối quan hệ xã hội N biết được khu vực đoạn đường C, thành phố T (khu vực gần nghĩa trang) có người bán ma túy. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 18/12/2023, N cần ma túy sử dụng nên đã bắt xe đi nhờ từ nhà ở thôn A, xã Q, huyện M, tỉnh Đắk Lắk ra thị trấn P, huyện M. Sau đó N bắt xe buýt đi từ thị trấn P lên khu vực đường C, thành phố T tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến khu vực gần nghĩa trang đường C, N gặp một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) rồi hỏi người này có biết chỗ nào bán ma túy đá không, mua giùm cho N. Người nam thanh niên này hỏi lấy bao nhiêu, đưa tiền đây? N nói lấy 300.000đ và N đưa 300.000đ cho người nam thanh niên này. Khoảng 10 phút sau, nam thanh niên quay lại và đưa cho N gói nylon bên trong có chứa ma túy. Sau đó N bắt xe buýt về lại huyện M, khi N đang đi bộ ở đoạn đường bê tông thuộc thôn A, xã Q, huyện M để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác thuộc Công an huyện Cư M’gar kiểm tra và phát hiện trong túi quần phía trước bên phải quần mà N đang mặc có 01 túi nylon kích thước (01x03)cm, bên trong gói nylon có chứa chất rắn dạng tinh thể. Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đối với Lê Văn N, tạm giữ và niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định số 09/KL-KTHS ngày 25/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể bên trong 01 (một) gói nylon kích thước (01x03)cm được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,2528gam, loại: Methamphetamine.
Tại phiếu kết quả xét nghiệm ngày 18/12/2023 của Trung tâm y tế huyện M kết quả: Lê Văn N dương tính với Methamphetamine.
Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar thu giữ 01 (một) túi ny lon có kích thước (01x03)cm, bên trong túi ny lon này có chứa chất rắn dạng tinh thể.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Công an tỉnh Đăk Lắk đã nói trên.
Tại bản Cáo trạng số 11/KSĐT-HS, ngày 21 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar để xét xử đối với bị cáo Lê Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Qua phần tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên đưa ra các chứng cứ buộc tội và đánh giá tính chất mức, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Đồng thời vẫn giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo nói trên, đưa ra các tình tiết về trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Lê Văn N từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 18/12/2023.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 46, khoản 1 và khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:
Tịch thu tiêu hủy 0,2291gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và cũng không có ý kiến tranh luận gì thêm đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cư M’gar, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.
[2] Về nội dung: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 18/12/2023, tại đoạn đường thuộc Thôn A, xã Q, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, Lê Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 0,2528gam ma túy, loại: Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật.
Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)….
c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.
Như vậy, căn cứ vào khối lượng ma túy đã thu giữ được, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Hành vi của bị cáo Lê Văn N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như đã viện dẫn nêu trên.
Xét thấy, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ nhận thức để biết được việc làm của mình là vi phạm pháp luật và gây tác động xấu đối với xã hội. Thế nhưng, do ham muốn thỏa mãn nhu cầu nghiện ngập không lành mạnh và ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, ngoài việc xâm hại đến các chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy còn góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương và là nguồn gốc phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Trong tình hình hiện nay trên địa bàn huyện M, tình trạng tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn ra rất tinh vi phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian, nhằm tác dụng trừng trị, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo để bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội cũng như biết tôn trọng pháp luật. Ngoài ra, còn đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung, phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy tại địa phương.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.
Trong vụ án này, đối tượng nam thanh niên bán ma túy cho bị cáo N trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar phối hợp với Công an phường H, thành phố T tiến hành xác minh, làm rõ đối tượng, tuy nhiên chưa xác định được nhân thân lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau khi xác định được đối tượng và hành vi vi phạm của đối tượng.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo N, ngày 27/12/2023 Công an huyện Cư M’gar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, với số tiền là 1.000.000đ, Lê Văn N đã thi hành xong.
[3] Về xử lý vật chứng:
Đối với chất rắn dạng tinh thể còn lại sau giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,2291gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong 01 (một) phong bì ghi: Mẫu vật còn lại sau giám định vụ: Lê Văn N - M; có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Văn E, Nguyễn Văn S và đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là hàng cấm, không có giá trị sử dụng. Do vậy, cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định pháp luật. [4] Về án phí: Bị cáo phải chịu toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Lê Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 18/12/2023.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:
Tịch thu tiêu hủy 0,2291gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong 01 (một) phong bì ghi: Mẫu vật còn lại sau giám định vụ: Lê Văn N - M; có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Văn E, Nguyễn Văn S và đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là hàng cấm, không có giá trị sử dụng.
(Hiện vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện M, có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/02/2024).
Về án phí:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Lê Văn N phải nộp 200.000đồng án phí HSST.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2024/HS-ST
Số hiệu: | 12/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về