Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 120/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 120/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 123/2020/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Lê Ngọc L, tên gọi khác: không có; Sinh ngày: 24/01/1985 tại: Thành phố H; Địa chỉ thường trú: Thành phố H; Chỗ ở hiện nay: không nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: không có; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Ngọc L và bà Võ Thị L; Chưa có vợ con; Tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 23/11/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố H xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị bắt giữ từ ngày 16/6/2020 (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị Mộng C, sinh năm 1998 Địa chỉ: Thành phố H (vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Hữu Thành P, sinh ngày 1974 Địa chỉ: Thành phố H (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 15/6/2020, Lê Ngọc L một mình điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại Vision, màu đỏ biển số 63B1-5 từ Quận 8 đến khu vực Trung Sơn, huyện Bình Chánh, Thành phố H gặp một người bạn tên H (không rõ lai lịch) để uống cà phê. Sau khi uống cà phê xong, L điều khiển xe mô tô của mình, còn H điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave RS màu đỏ về Quận 9 thuê khách sạn để ở và nghỉ ngơi, do trời tối nên L không nhớ tên, địa chỉ của khách sạn. Tại đây, L nhờ H mua ma túy tổng hợp để sử dụng, H đồng ý và gọi điện thoại cho người bán ma túy đưa đến phòng khách sạn. Khoảng 10 phút sau có 01 người phụ nữ (không rõ lai lịch) đến, biết là người bán ma túy nên L đưa cho người này 600.000 đồng và người phụ nữ giao cho L 01 gói ma túy, rồi bỏ đi. Sau đó H cùng L qua nhà bạn tên Nguyễn Hữu Thành P tại địa chỉ số 255 phường P, Quận 9. Tại đây, P nói H đứng trước nhà chờ, còn P điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại Vision, màu đỏ, biển số 63B1-5 chở L đi mua đồ ăn. Khoảng 01 giờ 50 phút ngày 16/6/2020, khi P đang điều khiển xe mô tô chở L đến trước nhà số 32, đường T, phường A, Quận 9 thì bị tổ tuần tra Công an Quận 9 nghi vấn, kiểm tra, phát hiện L đang cầm trong lòng bàn tay trái 01 gói ni lon chứa ma túy nên tiến hành thu giữ vật chứng và mời L, P về Công an phường A làm việc.

Tại Kết luận giám định số 1007/KLGĐ-H ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Ngọc L và hình dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,0788g (Một phẩy không bảy tám tám gam), loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 117/CT-VKSQ9 ngày 31 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố H đã truy tố bị cáo Lê Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc L đã trình bày lại toàn bộ nội dung vụ án và thừa nhận hành vi mua 1,0788g gam chất ma tuý Methamphetamine về tàng trữ để sử dụng nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ vào ngày 16/6/2020 tại trước nhà số 32, đường T, phường A, Quận 9 như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 đã truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, bị cáo cũng đã nhìn nhận trách nhiệm của mình và tỏ thái độ ăn năn hối hận, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến đánh giá nội dung vụ án, xác định hành vi phạm tội và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như nội dung bản cáo trạng. Đồng thời, đại diện Viện kiểm sát cũng đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định pháp luật xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; tịch thu, tiêu huỷ 01 gói niêm phong chứa chất ma tuý còn lại sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ, tang vật khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định, vào ngày 16/6/2020, bị cáo Lê Ngọc L đã thực hiện hành vi mua chất ma túy Methamphetamine về cất giữ với mục đích để sử dụng. Khi bị cáo đang cất giấu trong người 1,0788g (Một phẩy không bảy tám tám gam) chất ma túy Methamphetamine tại trước nhà số 32, đường T, phường A, Quận 9, Thành phố H thì bị phát hiện và bắt giữ. Do đó, hành vi của bị cáo Lê Ngọc L thực hiện đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[2] Xét ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự xã hội nên cần thiết phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng các quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù, tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự còn quy định bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, xét bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, tàng trữ ma tuý nhằm mục đích sử dụng cá nhân, không thu lợi nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Đối với Nguyễn Hữu Thành P đã sử dụng xe máy chở bị cáo L đi mua thức ăn khi bị bắt quả tang, nhưng P không biết việc L cất giấu ma túy trong người nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an Quận 9 không xử lý vi phạm đối với Nguyễn Hữu Thành P là có căn cứ.

[7] Riêng đối với đối tượng tên H đã có hành vi giới thiệu người bán ma túy cho bị cáo L, nhưng hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch của tên H nên chưa có cơ sở xử lý.

[8] Về tang vật chứng của vụ án:

- 01 gói niêm phong bên trong có chứa 0,9731g chất Methamphetamine còn lại sau giám định, đây là chất ma tuý mà Nhà nước quy định cấm tàng trữ nên tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 63B1-5 mà bị cáo sử dụng mua ma túy, qua xác minh thì chiếc xe trên thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị Mộng C, là bạn gái của bị cáo. Bà C cho bị cáo mượn sử dụng đi công việc, không biết bị cáo sử dụng mua ma tuý nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an Quận 9 đã trả lại xe cho bà C là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1.1. Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.2. Xử phạt: Lê Ngọc L 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2020.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong có chứa 0,9731g (không phẩy chín bảy ba một gam) chất Methamphetamine.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 83/20/PNK ngày 13/8/2020 của Công an Quận 9, Thành phố H).

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lê Ngọc L phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được thực hiện quyền kháng cáo bản án. Trường hợp vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 120/2020/HS-ST

Số hiệu:120/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về