Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 117/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 117/2022/HS-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11/5/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố S mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 120/2022TLST - HS ngày 08/4/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2022/QĐXXST-HS ngày 16/3/2022, đối với bị cáo:

Đinh Đức Q, sinh năm 1986.

HKTT: Tổ 12, phường Sông H, thành phố C, tỉnh C; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Khánh L, sinh năm 1949 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1957; Có vợ: Dương Thị K, sinh năm 1991 (Đã ly hôn); Con không có;

Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án số: 01 ngày 19/01/2009, Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh C xử phạt bị cáo 24 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 29/4/2010.

Tại bản án số: 110 ngày 25/10/2011, Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh C xử phạt bị cáo 30 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 18/9/2013.

Ngày 27/12/2014 Công an thành phố C xử phạt hành chính theo Quyết định số 10.

Tại bản án số: 28 ngày 09/5/2017, Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C xử phạt bị cáo 36 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 16/5/2019.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2021 đến nay. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ ngày 22/12/2021, tổ công tác Công an phường Tân Hồng, thành phố S tiến hành kiểm tra tại phòng trọ số 6, khu nhà trọ của ông Phạm Đăng Lân, sinh năm 1962 thuộc khu phố Dương Lôi, phường Tân Hồng, thành phố S, tỉnh Bắc Ninh, phát hiện 01 nam thanh niên tự khai Đinh Đức Q, sinh năm 1986, HKTT: Tổ 12, phường Sông Hiến, thành phố C, tỉnh C có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy.

Vật chứng thu giữ: Tại lòng bàn tay trái của Q có 02 (hai) gói nhỏ đều bọc ngoài bằng lớp giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng.

Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đồng thời thu giữ, niêm phong vật chứng và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S giải quyết theo thẩm quyền.

Ngoài ra, Cơ quan điều tra Công an thành phố S còn tạm giữ của Đinh Đức Q 01 chiếc ví da màu nâu, bên trong có 01 chứng minh nhân dân số 08043xxxx mang tên Đinh Đức Q; 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank mang tên D; số tiền 3.400.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Iphone 13 Pro, màu trắng có số IMEI 351619854218791 để điều tra làm rõ.

Tại kết luận giám định số: 66/KLGĐMT-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh, kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 02 (hai) gói nhỏ đều được bọc ngoài là lớp giấy màu trắng có khối lượng là 0,4896 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine”.

Quá trình điều tra, Đinh Đức Q khai nhận như sau:

Bị cáo có thuê phòng trọ của ông Phạm Đăng L ở khu phố Dương Lôi, phường Tân Hồng, thành phố S. Do bản thân sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2008 đến nay bằng hình thức hít vào cơ thể. Sáng ngày 22/12/2021, bị cáo bắt xe buýt từ phường Tân Hồng, thành phố S đến phường Đình Bảng, thành phố S mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đến khu vực khu phố Chùa Dận, phường Đình Bảng, thành phố S, bị cáo gặp và mua được một người đàn ông không quen biết 02 gói nhỏ ma túy Heroine đều bọc ngoài lớp giấy màu trắng với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo mang về phòng trọ của mình tại phường Tân Hồng, thành phố S cất giấu. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, bị cáo lấy 02 gói ma túy cầm trong lòng bàn tay trái ra để chuẩn bị sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Cáo trạng số: 43/CTr-VKS ngày 07/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S đã truy tố bị cáo Đinh Đức Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S đã truy tố. Bị cáo xác nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố S thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm vẫn giữ nguyên quyết định đã truy tố đối bị cáo Đinh Đức Q và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Đức Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đinh Đức Q từ 20 tháng đến 23 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư được niêm phong theo quy định bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định theo như Kết luận giám định số: 66/KLGĐMT-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh.

Trả lại cho bị cáo: 01chiếc ví da màu nâu, bên trong có 01 chứng minh nhân dân số 08043xxxx mang tên Đinh Đức Q; 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank mang tên D; số tiền 3.400.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Iphone 13 Pro, màu trắng có số IMEI 351619854218791; Nhưng cần giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Trong phần tranh luận, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố S công bố bản luận tội, bị cáo không có tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 {1} Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

{2} Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng và lời khai của bị cáo tại phiên tòa. Thể hiện: Hồi 14 giờ ngày 22/12/2021, tại phòng trọ số 6, khu nhà trọ của ông Phạm Đăng Lân, tổ công tác công an phường Tân Hồng phát hiện và bắt quả tang Đinh Đức Q có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói nhỏ ma túy có khối lượng 0,4896 gam chất Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo có đủ nhận thức năng lực hành vi.

Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Đinh Đức Q đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S truy tố bị cáo với tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng theo quy định của pháp luật.

{4} Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng cũng như giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản thân bị cáo; Đã 03 lần đều bị Tòa án nhân dân thị xã C (nay là thành phố C) đưa ra xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 01 lần bị Công an thành phố C xử phạt hành chính. Mặc dù cả 03 bản án và Quyết định hành chính bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ các quyết định và đều đương nhiên được xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo là người có nhân thân xấu điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo do vậy đối với bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tuy nhiên, cũng cần xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, đồng thời tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải về hành vi của bản thân; do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử áp dụng khi lượng hình để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự còn quy định có thể áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền... Xong xét thấy, bị cáo nghiện ma túy, lại không có nghề nghiệp ổn định, mục đích bị cáo tàng trữ ma túy chỉ để sử dụng nên miễn áp dụng toàn bộ hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

Liên quan trong vụ án này còn có người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo theo như bị cáo khai ở tại khu vực khu phố Chùa Dận, phường Đình Bảng, thành phố S. Quá trình điều tra, chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ người đàn ông này là ai, ở đâu nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét xử lý là phù hợp.

{5} Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì thư được niêm phong theo quy định bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định theo như Kết luận giám định số: 66/KLGĐMT-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Đây là vật Nhà nước cấm lưu hành và là vật dụng dùng để cất giấu ma túy nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với: 01chiếc ví da màu nâu, bên trong có 01 chứng minh nhân dân số 08043xxxx mang tên Đinh Đức Q; 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank mang tên D; số tiền 3.400.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Iphone 13 Pro, màu trắng có số IMEI 351619854218791; Xét thấy đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

{6} Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Đinh Đức Q, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo: Đinh Đức Q 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22/12/2021 là ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo công tác thi hành án.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư được niêm phong theo quy định bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định theo như Kết luận giám định số: 66/KLGĐMT-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh.

Trả lại cho bị cáo: 01chiếc ví da màu nâu, bên trong có 01 chứng minh nhân dân số 08043xxxx mang tên Đinh Đức Q; 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank mang tên D; số tiền 3.400.000 đồng và 01chiếc điện thoại Iphone 13 Pro, màu trắng có số IMEI 351619854218791; Nhưng cần giữ lại để đảm bảo thi hành án. Theo như biên bản giao, nhận vật chứng tài sản ngày 07/4/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố S với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đinh Đức Q phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 117/2022/HS-ST

Số hiệu:117/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về