Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 116/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 88/2xxx/HSST ngày 06 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Trần Thanh B, sinh năm 1996; tại Đ; nơi cư trú: Ấp Nhân Hoà, xã Tây Hoà, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1972; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 17/01/2020 bị Toà án nhân dân huyện T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng; bị cáo bị bắt từ ngày 05/11/2xxx (Có mặt).

2/ Họ và tên: Vũ Đức T, sinh năm 1994; tại Đ; nơi cư trú: Ấp Lộc Hoà, xã Tây Hoà, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đức Y, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị P L (Đã chết); có vợ tên Lê Hồng P, sinh năm 1992 và có 02 con (con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt từ ngày 07/11/2xxx (Có mặt).

3/ Họ và tên: Bùi Duy Ph, sinh năm 1985; tại Đ; nơi cư trú: Ấp Hưng B, xã Hưng Thịnh, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Minh, sinh năm 1962 và bà Võ Thị Lộc, sinh năm 1967; có vợ tên Dương Thị Diễm, sinh năm 1990; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt từ ngày 07/11/2xxx (Có mặt).

- Bị hại: Ông Nguyễn Quang H, sinh năm 1999.

Địa chỉ: Ấp Nhân Hoà, xã Tây Hoà, huyện T, tỉnh Đ. (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Minh H1, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Ấp Hưng B, xã Hưng Thịnh, huyện T, tỉnh Đ. (Vắng mặt).

2/ Ông Nguyễn Lê Đức H2, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Ấp Thuận Trường, xã Sông Thao, huyện T, tỉnh Đ. (Vắng mặt).

- Người làm chứng: Bà Trần Ngọc Diễm Q (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh B và Vũ Đức T cùng là đối tượng nghiện ma túy và thường sử dụng ma túy chung với nhau. Vào khoảng 10 giờ ngày 04/11/2xxx B đến nhà của Nguyễn Quang H ở ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện T hỏi mượn xe mô tô biển số 60H1- xxxxx của H để đi công việc, sau khi đi công việc xong đến khoảng 15 giờ cùng ngày do bản thân có nhu cầu sử dụng ma túy nên B nảy sinh ý định đem xe mô tô mượn của H mang đi cầm để lấy tiền mua ma túy sử dụng. B điều khiển xe mô tô 60H1- xxxxx đến nhà của T ở ấp Lộc Hòa, xã Tây Hòa, huyện T nhờ T đi tìm chỗ cầm xe để trao đổi lấy ma túy đá cùng sử dụng, T đồng ý. T điều khiển xe (chưa xác định được biển số) dẫn B đi đến nhà của Bùi Duy Ph ở ấp Hưng B, xã Hưng Thịnh, huyện T, B nhờ T vào gặp P trao đổi cầm cố chiếc xe 60H1- xxxxx để đổi lấy ma túy sử dụng, P kiểm tra xe và đồng ý cầm chiếc xe với giá 1.600.000 đồng. P vào nhà lấy 01 gói ma túy đá trị giá 1.600.000 đồng đưa cho T, T cầm đưa cho B cất vào túi quần rồi T điều khiển xe chở B về nhà của B ở ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện T, cả hai lấy ma túy ra cùng sử dụng, sử dụng xong thì T đi về. B lấy số ma túy còn lại chia ra thành 06 gói nhỏ và cất vào túi áo sơ mi để ở phòng ngủ để sử dụng dần. Đến khoảng 15 giờ ngày 05/11/2xxx Công an xã Tây Hòa kiểm tra hành chính nhà của B phát hiện số ma túy nêu trên nên đã thu giữ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với B đồng thời chuyển giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện T giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 06 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M1); 01 điện thoại di động hiệu N1280 có gắn sim số 0936.343.xxx.

Ngày 07/11/2xxx Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với T và P. Kiểm tra trong người P Công an thu giữ 01 gói nylon hàn kín kích thước 04 x 06cm chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M2). Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của P, phát hiện và thu giữ 01 gói nylon hàn kín kích thước 1,5 x 2,5cm chứa chất tinh thể màu trắng bên trong cây dù treo trên tường chỗ cửa ra vào phòng ngủ (ký hiệu M3); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 cân tiểu ly màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 106 kèm sim số 0903.182.xxx.

Cơ quan điều tra Công an huyện T đã trưng cầu giám định số mẫu vật thu giữ nêu trên. Tại Bản kết luận giám định số 2138/KLGĐ-PC09 ngày 12/11/2xxx của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (ký hiệu M1) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,4331 gam Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (ký hiệu M2) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,3976 gam Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (ký hiệu M3) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,2390 gam Methamphetamine.

Ngày 12/11/2xxx Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trần Thanh B, Vũ Đức T và Bùi Duy Ph để điều tra. Quá trình điều tra xác định nguồn gốc ma túy thu giữ của P và số ma túy P bán cho T và B, P mua của người thanh niên tên Công (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau khi cầm xe 60H1- xxxxx và đổi lấy ma túy cho T và B, P đã đem chiếc xe cầm lại cho Nguyễn Minh H1. Ngoài lần cầm xe trao đổi ma túy với B và T ngày 05/11/2xxx, P không bán ma túy cho ai lần nào khác.

Ngày 21/12/2xxx sau khi biết B bị bắt, anh Nguyễn Quang H đã làm đơn trình báo đến Cơ quan CSĐT Công an huyện T và cung cấp các giấy tờ liên quan đến chiếc xe mô tô 60H1- xxxxx. Ngày 31/12/2xxx Nguyễn Minh H1 tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô 60H1- xxxxx cho Cơ quan điều tra Công an huyện T để điều tra xử lý.

Theo bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện T kết luận: 01 xe mô tô biển số 60H1- xxxxx đã qua sử dụng có trị giá là 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).

Đối với 01 điện thoại di động hiệu N1280 có gắn sim số 0936.343.xxx thu giữ của B và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 106 kèm sim số 0903.182.xxx thu giữ của phương không sử dụng vào việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho B và P.

Đối với chiếc xe mô tô 60H1- xxxxx, kết quả tra cứu xe do anh Nguyễn Lê Đức Hóa (là anh rể của anh Nguyễn Quang H) đứng tên sở hữu. Năm 2020 H mua xe trả góp nên nhờ anh Hóa đứng tên dùm cho H trong hồ sơ và trên giấy đăng ký xe. Ngày 04/11/2xxx B mượn xe của anh H và mang đi cầm cố lấy ma túy sử dụng anh Hóa không biết. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho anh Hóa và anh H.

Tại Cáo trạng số: 46/CT-VKS-TB ngày 22/02/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đ đã truy tố các bị cáo Trần Thanh B về các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự; Vũ Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Bùi Duy Ph về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo:

- Trần Thanh B mức án từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, từ 08 (Tám) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt bị cáo phải chịu chung cả hai tội là từ 02 (Hai) năm 04 (Bốn) tháng đến 03 (Ba) năm tù.

- Vũ Đức T mức án từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

- Bùi Duy Ph mức án từ 07 (Bảy) năm đến 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo P xác định tàng trữ 0,6336 gam ma tuý loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Đồng thời bị cáo P cũng xách định chỉ bán một lần duy nhất cho bị cáo B và T 01 gói ma tuý có khối lượng 0,4331 gam ma tuý loại Methamphetamine với giá 1.600.000 đồng.

Các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai nhận của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

2.1. Vào ngày 04/11/2xxx, tại ấp Nhân Hoà, xã Tây Hoà, huyện T, tỉnh Đ, bị cáo B còn có hành vi lợi dụng sự tin tưởng của ông Nguyễn Quang H cho mượn xe sau đó chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 60H1-xxxxx có trị giá 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) của ông H. Hành vi nêu trên của các bị cáo Trần Thanh B đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2.2. Vào khoảng 15 giờ ngày 05/11/2xxx, tại số nhà 62/4 ấp Nhân Hoà, xã Tây Hoà, huyện T, tỉnh Đ, bị cáo Trần Thanh B, Vũ Đức T có hành vi tàng trữ 0,4331 gam ma tuý loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của các bị cáo Trần Thanh B và Vũ Đức T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 2.3. Vào khoảng 15 giờ ngày 04/11/2xxx, tại ấp Hưng B, xã Hưng Thịnh, huyện T, tỉnh Đ, bị cáo P đã bán cho bị cáo B và T 01 gói ma tuý có khối lượng 0,4331 gam ma tuý loại Methamphetamine với giá 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm ngàn đồng). Ngày 07/11/2xxx, khi bắt giữ, kiểm tra, khám xét, thu giữ của bị cáo P 0,6336 gam ma tuý loại Methamphetamine mà bị cáo tàng trữ nhằm mục đích để sử dụng và mua bán. Hành vi nêu trên của bị cáo Bùi Duy Ph đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến tài sản của người khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương nên cần phải xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi của các bị cáo. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng cần xem xét đến việc các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo để xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt thể hiện sự nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần. Đối với khung hình phạt của bị cáo P không phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử.

[5]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong 01 phong bì niêm phong chứa ma túy sau giám định số: 1705/KLGĐ-PC09 ngày 26/8/2xxx của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ; 01 cân tiểu ly; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

[6]. Đối với người mang tên Công (không rõ họ, địa chỉ) bán ma tuý cho P đề nghị đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ khi có căn cứ xử lý sau. Đối với Nguyễn Minh H1, khi cầm xe của P không biết xe do phạm tội mà có, đồng thời đã tự nguyện giao nộp lại chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không xử lý. Đối với bị cáo T khi dẫn B đến nhà bị cáo P để trao đổi cầm xe lấy ma tuý sử dụng, T không biết xe do B chiếm đoạt của ông H nên không xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

[7]. Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố bị cáo Trần Thanh B phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh B 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 10 (Mười) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho hai tội là 02 (Hai) năm 04 (Bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/11/2xxx.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố bị cáo Vũ Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Vũ Đức T 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2xxx.

3. Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Duy Ph phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” - Xử phạt: Bị cáo 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2xxx.

4. Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong 01 phong bì niêm phong chứa ma túy sau giám định số: 1705/KLGĐ-PC09 ngày 26/8/2xxx của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ; 01 cân tiểu ly; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

(Hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/11/2xxx của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14:

Buộc các bị cáo Trần Thanh B, Vũ Đức T và Bùi Duy Ph mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2022/HS-ST

Số hiệu:116/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về