Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 113/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 113/2021/HS-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 14 tháng 4 năm 2021, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo

Nguyễn Xuân Kh (tên gọi khác: không), sinh ngày 25/2/1969, tại Thái Nguyên. Nơi thường trú: tổ X, phường TL, TPTN, tỉnh TN. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Nguyễn Văn Ng (đã chết) và bà: Lưu Thị L, sinh năm 1943, gia đình bị cáo có 06 chị em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ: Bùi Thị Ph, sinh năm 1973, có 01 con chung sinh năm 1997; Tiền án: không.

Tiền sự: 01- Tại Quyết định số 31 ngày 24/01/2018 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 15 tháng, chấp hành xong quyết định ngày 30/8/2019.

Nhân thân: 02                        

- Tại bản án số 125 ngày 25/7/2003 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thi hành xong án phạt tù ngày 30/9/2009.

- Tại bản án số 206 ngày 21/6/2011 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thi hành xong ngày 16/11/2013.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2021 đến nay, hiện tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

1) ông Mai Quang H, sinh năm 1941 (vắng mặt)

Nơi thường trú: Tổ Y, phường TL, TPTN, tỉnh TN.

2) Bà Phạm Thị X, sinh năm 1955 (vắng mặt)

Nơi thường trú: Tổ X, phường TL, TPTN, tỉnh TN.

*Người chứng kiến: Ông Mai Văn V, sinh năm 1961 (vắng mặt)

Nơi thường trú: Tổ X, phường Q, TPTN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/01/2021, Kh đi bộ từ nhà xuống khu vực phường Q, TPTN, tỉnh Thái Nguyên tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu vực ngã X, phường Q, TPTN, tỉnh Thái Nguyên Kh gặp một nam thanh niên không quen biết hỏi mua 100.000 đồng được nam thanh niên đưa cho một gói ma túy bên ngoài gói bằng lớp giấy màu xanh. Sau khi mua được ma túy, Kh cầm trong lòng bàn tay trái rồi đi về nhà để sử dụng khi đến khu vực tổ Z, phường Q thì gặp tổ công tác công an phường Quan Triều yêu cầu kiểm tra, Kh tự giác giao nộp gói ma túy cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói giấy bạc màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định: số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Xuân Kh có khối lượng là 0,255 gam, niêm phong ký hiệu K gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 177/KL-KTHS ngày 11/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu K gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,255 gam.

Tại bản Cáo trạng số 103/CT-VKSTPTN ngày 12 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Kh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy nên đã tìm mua ma túy để sử dụng, khi bị lực lượng công an kiểm tra, bị cáo đã tự giác giao nộp số ma túy, cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ số ma túy như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Kh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Kh từ 30-36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu K bên trong chứa ma túy. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo nhận thức hành vi vi phạm của mình là sai, vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[1.2] Về nhân thân của bị cáo Kh: Tại bản án số 125 ngày 25/7/2003 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt Nguyễn Xuân Kh 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” bị cáo thi hành xong án phạt tù ngày 30/9/2009, ngoài ra bản án còn buộc bị cáo bồi thường cho chị Nguyễn Thị X 179.000 đồng, ông Mai Quang H số tiền 105.000 đồng. Tại trả lời yêu cầu xác minh thi hành án số 63/TLXM ngày 01/2/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên xác định: từ khi án có hiệu lực đến nay người phải thi hành án và được thi hành án chưa có đơn yêu cầu thi hành số tiền trên do đó cơ quan thi hành án không thụ lý. Theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự thời hạn yêu cầu thi hành án “Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiện lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền ra quyết định thi hành án”, quá trình điều tra cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai đối với người được thi hành án là Nguyễn Thị X và Mai Quang H đều xác định không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền theo bản án trên. Tại bản án số 206/2011/HSST ngày 21/6/2011 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Kh 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo thi hành xong hình phạt tù ngày 16/11/2013 và thi hành xong phần án phí ngày 07/9/2011. Do đó áp dụng Điều 70 Bộ luật hình sự và áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội xem xét bị cáo được đương nhiên xóa án tích đối với các bản án trên và xem xét là nhân thân của bị cáo.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Xuân Kh tại phiên tòa hôm nay là khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ và Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên về số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo là Heroine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Hồi 10 giờ 30 ngày 02/01/2021 Nguyễn Xuân Kh đi bộ ra khu vực ngã X, phường Q, TPTN gặp 01 nam thanh niên hỏi mua 100.000 đồng được 01 gói ma túy loại Heroine được gói bên ngoài bằng lớp giấy màu xanh. Sau khi mua được ma túy Kh cầm trong lòng bàn tay trái đi tìm nơi sử dụng, khi đi đến khu vực tổ Z, phường Q thì bị lực lượng công an kiểm tra hồi 11 giờ 00 phút cùng ngày. Quá trình kiểm tra bị cáo Kh đã tự giác giao nộp gói ma túy, tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng theo quy định, cùng ngày cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân kiểm tra trọng lượng xác định chất bột màu trắng có khối lượng 0,255 gam, qua giám định là ma túy, loại Heroine.

[3] Với hành vi mua 0,255 gam Heroine cất giữ với mục đích để sử dụng hành vi của bị cáo Kh đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy tuy nhiên vẫn mua ma túy với mục đích phục vụ cho nhu cầu của bản thân.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự, do đó Hội đồng xét xử xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung "phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản ”. Bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản, thu nhập, mua ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với bì niêm phong ma túy K là vật cấm tàng trữ, lưu hành bị tịch thu tiêu hủy.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc Heroin bị thu giữ: Nguyễn Xuân Kh khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ tại khu vực ngã X, phường Q, quá trình điều tra không xác minh được nhân thân, lai lịch của người này nên chưa có căn cứ xem xét.

 [10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa đối với bị cáo như phân tích ở trên là có phần nghiêm khắc.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Kh phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Nguyễn Xuân Kh 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/01/2021.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Xuân Kh 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án

[3] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm ký hiệu K bên trong chứa 0,243 gam ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy, Lê Tuấn Anh và 02 dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 275 lập ngày 25/3/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Xuân Kh phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Nguyễn Xuân Kh có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 113/2021/HS-ST

Số hiệu:113/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về