Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 112/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 121/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Phan Đình H (tên gọi khác: Bi Em) - sinh năm 1988 tại Khánh Hòa; Không có nơi đăng ký nhân khẩu thường trú; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Đình H1 (1964) và bà Nguyễn Thị H2 (1962); Tiền sự: không; Tiền án: Bản án số 89/2013/HSST ngày 02/4/2013, Tòa án nhân dân tp. N xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Nhân thân: Bản án số 78/2006/HSST ngày 14/11/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Bắt tạm giam từ ngày 08/02/2021; Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Nguyễn Khánh A - sinh năm 1986; Vắng mặt.

Nguyễn Minh B - sinh năm 1996; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 25/6/2020, trong khi tuần tra tại khu vực ngã ba đường B1 và đường 19/5, Khu đô thị V - xã V - tp. N, tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Khánh Hòa phối hợp với Công an xã V phát hiện Phan Đình H đang điều khiển xe máy Honda MSX, biển kiểm soát 79Z1-440.93 có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên tiến hành kiểm tra. Lúc này, tổ công tác phát hiện dưới chân nơi H đang đứng có 01 bịch nylon có khóa hằn miệng, kích thước khoảng (5 x 7)cm, bên trong có chứa 08 viên nén hình tròn màu xanh và 01 bịch nylon có khóa hằn miệng kích thước khoảng (3,5 x 4)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (tất cả được niêm phong ký hiệu A). Tổ công tác thu giữ, niêm phong tang vật và mời H về trụ sở làm việc.

Quá trình điều tra, Phan Đình H khai nhận: khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 25/6/2020, H sử dụng số điện thoại di động 0905141038 gọi vào số 0773916547 của một người phụ nữ tên T để hỏi mua 08 viên ma túy “thuốc lắc” và nửa hộp năm ma túy “khay” với giá 5.600.000đ. Sau khi thỏa thuận xong giá cả và thời gian nhận, H điều khiển xe máy, biển kiểm soát 79Z1-440.93 đến ngã tư đường số 4 và đường T - phường P - tp. N để nhận số ma túy trên từ T. Sau khi có được ma túy, H kẹp vào kẽ chân trái rồi điều khiển xe máy đi đến khu vực chợ N để sử dụng ma túy cùng bạn. Khi đến khu vực ngã ba đường B1 và đường 19/5, khu đô thị V - xã V - tp. N thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Lúc này, do hoảng sợ nên H đã thả bịch ma túy từ chân rơi xuống đất nên bị tổ công tác phát hiện và bắt giữ.

Kết luận giám định số 414/GĐTP/2021 ngày 01/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận:

- Các viên nén màu xanh gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,5152g, là (loại) MDMA.

- Tinh thể màu trắng là ma túy, có khối lượng 1,9560g, là (loại) Ketamine Tại bản cáo trạng số 107/CT-VKSNT ngày 14/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Phan Đình H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N - tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo H từ 01 năm 6 tháng tù đến 02 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch tịch tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi gửi giám định và vỏ đựng mẫu vật. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone. Trả lại cho bị cáo H 01 điện thoại di động hiệu Viettel, 01 điện thoại di động hiệu Sam sung và 290.000đ. Về án phí: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: người làm chứng Nguyễn Khánh A, Nguyễn Minh B đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định vào tối ngày 25/6/2020, bị cáo H đã mua một bịch nylon có khóa hằn miệng, bên trong có chứa 08 viên nén hình tròn màu xanh và 01 bịch nylon có khóa hằn miệng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng của một người phụ nữ tên T (chưa xác định được nhân thân lai lịch). Qua giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa xác định 08 viên nén hình tròn màu xanh là ma túy loại MDMA, có khối lượng 2,5152g; tinh thể màu trắng là ma túy loại KETAMINE, có khối lượng 1,9560g. Căn cứ vào Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ “Quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015” thì tỷ lệ phần trăm của 02 chất ma túy này dưới 100%. Do đó, hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo biết rõ các chất ma túy, trong đó có MDMA và KETAMINE là chất gây nghiện, hướng thần do Nhà nước độc quyền quản lý, mọi hành vi mua bán, tàng trữ, sử dụng mà không được phép của Nhà nước đều bị nghiêm cấm nhưng bị cáo đã mua về để sử dụng. Mặt khác, bị cáo có một tiền án, chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đây là bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Đồng thời, trong quá trình điều tra, bị cáo đã vi phạm Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố. Điều này thể hiện thái độ xem thường kỷ cương pháp luật của Nhà nước nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về vật chứng : Khối lượng chất ma túy còn lại sau khi gửi giám định (2,1511g MDMA và 1,7509g KETAMINE) là chất cấm tàng trữ, lưu hành, 01 túi nylon màu trắng, có khóa hằn miệng màu đỏ, kích thước (5 x 7)cm và 01 túi nylon màu trắng, có khóa hằn miệng màu trắng, kích thước (3,5 x 4)cm không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Một điện thoại di động hiệu Iphone, màu xám đen, sử dụng số thuê bao 0905141038; 01 điện thoại di động hiệu Viettel, màu xám, sử dụng số thuê bao 0785899865; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, vỏ màu trắng, sử dụng số thuê bao 0905281232 là tài sản riêng của bị cáo H nên cần trả lại cho bị cáo. Số tiền 290.000đ là tiền riêng của bị cáo H, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo H.

[6] Đối với người phụ nữ tên T đã bán ma túy cho bị cáo H, hiện nay, cơ quan Công an đang tiếp tục điều tra xác minh làm rõ. Khi nào có cơ sở sẽ xử lý sau.

Đối với người tên M, N, Q: Qua xác minh tại xã Vĩnh Ngọc, xã Vĩnh Thái và phường Phước Long thì tại những nơi này không có đối tượng nào có đặc điểm, tên gọi như bị cáo H khai nên không có cơ sở để xem xét bị cáo H tội danh “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

[7] Về án phí:  Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phan Đình H (Bi Em).

Xử phạt : bị cáo Phan Đình H (Bi Em) 02 (hai) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 08/02/2021.

Về vật chứng : Áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì giấy, một mặt ghi “Vụ 414/GĐTP/2020. Mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu tinh thể: 1,7509gam”. Một mặt có chữ ký niêm phong của “Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Ngọc Thanh Tr” và dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa.

+ 01 (một) phong bì giấy, một mặt ghi “Vụ 414/GĐTP/2020. Mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu A viên: 2,1511gam”. Một mặt có chữ ký niêm phong của “Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Ngọc Thanh Tr” và dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa.

+ 01 (một) túi nylon màu trắng, có khóa hằn miệng màu đỏ, kích thước (5 x 7)cm.

+ 01 (một) túi nylon màu trắng, có khóa hằn miệng màu trắng, kích thước (3,5 x 4)cm.

Trả lại cho bị cáo Phan Đình H: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, vỏ màu xám đen, sử dụng số thuê bao 0905141038; 01 (một) điện thoại di động hiệu Viettel, vỏ màu xám, sử dụng số thuê bao 0785899865; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, vỏ màu trắng, sử dụng số thuê bao 0905281232 và 290.000đ (Hai trăm chín mươi nghìn đồng) theo giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước số 2580905 ngày 30/7/2020 của Công an tp. N vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước Khánh Hòa thông qua Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - chi nhánh Khánh Hòa.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/5/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

Về án phí : Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Phan Đình H nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2021/HS-ST

Số hiệu:112/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về