Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 11/2020/HS-ST NGÀY 28/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nông Đức M, (tên gọi khác: M N); sinh ngày 09 tháng 8 năm 1986 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn T1 (tên gọi khác: N) và bà Hoàng Thị C; vợ, con: Chưa có; tiền án: Tại Bản án số 20/2010/HS.ST ngày 27/8/2010, Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 01 năm 02 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích; tại Bản án số 01/2012/HS-ST ngày 17/01/2012 Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích; tại Bản án số 38/2013/HSST ngày 26/12/2013 Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 8 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích; tiền sự: Không có; nhân thân: Đã từng bị kết án, chưa bị xử lý kỷ luật, tại Quyết định số 1613/QĐ-UB ngày 07/10/2004 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng do hành vi Trộm cắp có hệ thống, đã chấp hành xong; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 23/10/2019 đến nay. Có mặt.

2. Nông Minh T2, (các tên gọi khác: Nông Khánh T2, Nông Văn T2, Nông Mạnh T2), sinh ngày 19 tháng 12 năm 1986 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn H, xã C, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn K (tên gọi khác: Nông Ngọc K) (đã chết) và bà Đường Kim T3 (tên gọi khác: Đường Kim L);

vợ là Nông Thị B đã ly hôn, con: Chưa có; tiền án: Tại Bản án số 36/2010/HS.ST ngày 29/12/2010 Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích; Tại Bản án số 23/2013/HSST, Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 3 năm tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích; tại Bản án số 24/2013/HSST ngày 03/9/2013, Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 03 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản (tổng hợp với hình phạt của Bản án số 23/2013/HSST của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn, hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 6 năm tù), chưa được xóa án tích; tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý kỷ luật, tuy nhiên tại Bản án số 11/2006/HSST ngày 27/4/2006 Tòa án nhân dân huyện Tràng Định xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích; tại Bản án số 68/2008/HSST ngày 28/7/2008 Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích; tại Quyết định số 2100/QĐ-UB ngày 08/10/2002, Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn quyết định đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng do vi phạm pháp luật có hệ thống, đã chấp hành xong; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 23/10/2019 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Nông Thị Khánh L, sinh năm 1988. Nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Bà Hoàng Thị C, sinh năm 1954. Nơi cư trú: Thôn N, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nông Văn Ư, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nông Đức M (tên gọi khác: M N) và Nông Minh T2 (các tên gọi khác: Nông Khánh T2, Nông Văn T2, Nông Mạnh T2) đều nghiện chất ma túy.

Khoảng 16 giờ ngày 22/10/2019, Nông Minh T2 đến nhà Nông Đức M ở thôn N, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn chơi. Tại đây, Nông Đức M hỏi Nông Minh T2 có biết chỗ nào bán ma túy không mua hộ một chỉ. Nông Minh T2 nói một chỉ giá 4.200.000đ (bốn triệu hai trăm nghìn đồng) và hẹn nếu đi thì sáng ngày 23/10/2019 cùng đi thành phố L mua ma túy.

Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 23/10/2019, Nông Minh T2 gọi điện thoại cho Nông Đức M hỏi có đi mua ma túy không, Nông Đức M đồng ý. Sau đó, Nông Minh T2 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12T1-094.** đến nhà đón Nông Đức M và Nông Đức M điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12T1-094.** chở Nông Minh T2 cùng xuống thành phố L tìm mua ma túy đem về sử dụng; khi đến thị trấn N thì đổi lái, Nông Minh T2 điều khiển xe mô tô, khi đi đến ngã 4 P thuộc xã H, thành phố L, Nông Đức M đưa cho Nông Minh T2 4.200.000đ (bốn triệu hai trăm nghìn đồng) để đi mua ma túy. Sau đó, cả hai tiếp tục di chuyển đến quán nước ở ngã 3 C1 thuộc phường C2, thành phố L, Nông Đức M ngồi uống nước, Nông Minh T2 đi gặp và hỏi mua ma túy với một người đàn ông tên T4, khoảng 50 tuổi (không biết họ, địa chỉ), T4 đồng ý. T4 điều khiển mô tô biển kiểm soát 12T1-094.** chở Nông Minh T2 đi, trên đường đi Nông Minh T2 đưa cho T4 4.200.000đ (bốn triệu hai trăm nghìn đồng) tiền Nông Đức M đưa cho; khi đến khu vực dốc M, thành phố L thì T4 dừng xe lại, bảo Nông Minh T2 đứng đợi còn T4 một mình đi vào trong ngõ. Khoảng 10 phút sau, T4 đi ra và đưa cho Nông Minh T2 01 (một) gói nilon màu hồng bên trong đựng các cục bột màu trắng là ma túy Heroine; Nông Minh T2 nhận lấy và cầm trong lòng bàn tay trái. T4 điều khiển xe chở Nông Minh T2 về chỗ Nông Đức M, gần đến nơi thì T4 dừng xe và đi đâu Nông Minh T2 không biết, còn Nông Minh T2 điều khiển xe đi đón Nông Đức M và cùng đi ra bãi tha ma C1. Đến nơi, Nông Minh T2 đưa cho Nông Đức M gói ma túy vừa mua được; Nông Đức M nhận lấy mở ra lấy một ít ma túy ra cùng Nông Minh T2 sử dụng bằng hình thức chích. Sau khi sử dụng, còn lại một ít trong số ma túy đã lấy ra, Nông Đức M gói lại bằng mảnh nilon màu hồng đưa cho Nông Minh T2 để sử dụng. Số ma túy còn lại Nông Đức M cất vào trong túi quần bên trái đang mặc, sau đó cả hai ra chỗ để xe mô tô thì Nông Minh T2 đưa gói ma túy vừa được cho và nhờ Nông Đức M cất hộ để điều khiển xe mô tô, Nông Đức M cất gói ma túy vào túi quần bên trái đang mặc. Nông Minh T2 điều khiển xe mô tô chở Nông Đức M đi về, khi đi đến thôn T5, xã T6, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì bị tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện, bắt quả tang vào hồi 13 giờ, ngày 23/10/2019.

Tổ công tác đã thu giữ của Nông Đức M: 01 (một) gói ni lon màu hồng bên trong chứa cục chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Nông Đức M”.

Tổ công tác đã thu giữ của Nông Minh T2: 01 (một) gói ni lon màu hồng bên trong chứa cục chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Nông Minh T2”.

* Tạm giữ của Nông Đức M:

- Số tiền 6.650.000đ (sáu triệu, sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim VIETTEL.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Goldberg đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim VIETTEL.

* Tạm giữ của Nông Minh T2:

- Số tiền 1.545.000đ (một triệu, năm trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 12T1-094.** nhãn hiệu Honda, đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim VIETTEL.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Nông Thị Khánh L.

Cùng ngày 23/10/2019, cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Nông Đức M và tạm giữ 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Nông Đức M.

Tại Kết luận giám định số 365/KL-PC09 ngày 26/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

1/ Phong bì thư ghi chữ “QT Nông Đức M”: Cục chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 2,748 gam (đã trừ bì).

2/ Phong bì thư ghi chữ “QT Nông Minh T2”: Cục chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,072 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKS-HS ngày 20/01/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nông Đức M và Nông Minh T2 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo Nông Đức M xin lại chứng minh nhân dân và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Goldberg; bị cáo Nông Minh T2 xin lại số tiền 1.545.000đ (một triệu, năm trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

Chị Nông Thị Khánh L trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12T1- 094.** và giấy đăng ký xe là của chị, chị cho Nông Minh T2 mượn xe đi làm; chị không biết Nông Minh T2 sử dụng xe cùng Nông Đức M đi mua ma túy, tàng trữ để dụng; cơ quan điều tra đã trả lại cho chị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12T1-094.** và giấy đăng ký xe; nay chị không có yêu cầu gì.

Bà Hoàng Thị C trình bày: Số tiền 6.650.000đ (sáu triệu, sáu trăm năm mươi nghìn đồng) là tiền của bà tích cóp được đưa cho con trai là Nông Đức M để đi mua xe máy về sử dụng; cơ quan điều tra đã trả lại cho bà số tiền trên, nay bà không có yêu cầu gì.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nông Đức M và bị cáo Nông Minh T2 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nông Đức M từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù giam; xử phạt bị cáo Nông Minh T2 từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù giam. Các bị cáo đều là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE của bị cáo Nông Đức M và 01 (một) điện thoại điện thoại di động nhãn hiệu OPPO của Nông Minh T2, là tài sản dùng vào việc phạm tội. Trả lại cho bị cáo Nông Đức M 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Goldberg và 01 (một) chứng minh nhân dân; trả lại cho bị cáo Nông Minh T2 số tiền 1.545.000đ (một triệu, năm trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng, các bị cáo rất hối hận và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về chăm sóc gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo: Khoảng 13 giờ ngày 23/10/2019, tại thôn T5, xã T6, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện Nông Minh T2 sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 12T1 - 094.** chở Nông Đức M và bắt quả tang trên người Nông Đức M có 02 (hai) gói nilon màu hồng, trong mỗi gói đều chứa chất ma túy heroine. Các bị cáo đều khai nhận: 01 (một) gói chứa cục ma túy to là của Nông Đức M (nhờ Nông Minh T2 mua hộ) tàng trữ để sử dụng và 01 (một) gói chứa cục ma túy nhỏ là của Nông Minh T2 (được Nông Đức M cho) tàng trữ để sử dụng. Theo Kết luận giám định, khối lượng ma túy thu giữ của Nông Đức M là 2,748 gam heroine (đã trừ bì) và thu giữ của Nông Minh T2 là 0,072 gam (đã trừ bì). Tuy nhiên, các bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ khối lượng ma túy bị thu giữ là 2,82 gam heroine, bởi lẽ toàn bộ số ma túy trên đều do Nông Minh T2 mua hộ Nông Đức M; bản thân Nông Minh T2 được đi mua ma túy cho Nông Đức M và sử dụng xe mô tô chở Nông Đức M cùng toàn bộ số ma túy. Do đó, có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo Nông Đức M và bị cáo Nông Minh T2 đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy heroine với khối lượng 2,82 gam. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi các bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nông Đức M và bị cáo Nông Minh T2 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vụ án có đồng phạm nhưng có tính chất giản đơn, các bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm; bị cáo Nông Đức M bỏ tiền, nhờ bị cáo Nông Minh T2 đi mua ma túy; bị cáo Nông Minh T2 sử dụng xe mô tô mượn của em gái, trực tiếp đi mua ma túy về cho Nông Đức M và sử dụng xe mô tô chở Nông Đức M cùng toàn bộ số ma túy. Do đó, xét vai trò của các bị cáo là như nhau.

[3] Bị cáo Nông Đức M, tại Bản án số 01/2012/HS-ST ngày 17/01/2012, Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích; tại Bản án số 38/2013/HSST ngày 26/12/2013 Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 8 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (thuộc trường hợp tái phạm), chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Bị cáo Nông Minh T2, tại Bản án số 36/2010/HS.ST ngày 29/12/2010 Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích; tại Bản án số 23/2013/HSST Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (thuộc trường hợp tái phạm), chưa được xóa án tích; tại Bản án số 24/2013/HSST ngày 03/9/2013, Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 03 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản (thuộc trường hợp tái phạm); tổng hợp với hình phạt của Bản án số 23/2013/HSST của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn, hình phạt chung bị cáo Nông Minh T phải chấp hành là 6 năm tù, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Các bị cáo đều đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc vào trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, các bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về nhân thân: Bị cáo Nông Đức M đã từng bị đưa vào cơ sở giáo dục, bị cáo Nông Minh T2 đã từng bị đưa vào trường giáo dưỡng; các bị cáo nhiều lần bị Tòa án xét xử, kết tội, sau khi ra tù lại tiếp tục sử dụng ma túy; điều đó cho thấy các bị cáo có nhân thân xấu.

[8] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 02/12/2019 tại xã Đ và xã C đều thuộc huyện T, tỉnh Lạng Sơn của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Các bị cáo đều không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định được để trong hai phong bì niêm phong và toàn bộ các vỏ bao gói là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE bên trong lắp 01 (một) sim VIETTEL của bị cáo Nông Đức M và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO bên trong lắp 01 (một) sim VIETTEL của Nông Minh T2 các bị cáo dùng để liên lạc, trao đổi đi mua ma túy, là tài sản dùng vào việc phạm tội. Trả lại cho bị cáo Nông Đức M 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Goldberg đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim VIETTEL và 01 (một) chứng minh nhân dân; trả lại cho bị cáo Nông Minh T2 số tiền 1.545.000đ (một triệu, năm trăm bốn mươi lăm nghìn đồng); là tài sản, giấy tờ của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12T1-094.** và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy, quá trình điều tra xác định là của chị Nông Thị Khánh L, chị Nông Thị Khánh L không biết bị cáo sử dụng xe mô đi mua ma túy để tàng trữ, sử dụng, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô và các giấy tờ cho chị Nông Thị Khánh L là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với số tiền 6.650.000đ (sáu triệu, sáu trăm năm mươi nghìn đồng), quá trình điều tra xác định là tiền của bà Hoàng Thị C; không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Hoàng Thị C là phù hợp với quy định.

[11] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[12] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Đối với người đàn ông tên T4 bán ma túy cho các bị cáo, các bị cáo không biết họ và địa chỉ. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra nhưng không làm rõ được, do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[14] Các bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Đức M (tên gọi khác: M N) và bị cáo Nông Minh T2 (các tên gọi khác: Nông Khánh T2, Nông Văn T2, Nông Mạnh T2) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nông Đức M (tên gọi khác: M N) 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/10/2019.

Xử phạt bị cáo Nông Minh T2 (các tên gọi khác: Nông Khánh T2, Nông Văn T2, Nông Mạnh T2) 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/10/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Nông Đức M” có chữ ký và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 2,390 gam chất ma túy heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và toàn bộ các vỏ bao gói;

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Nông Minh T2” có chữ ký và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,057 gam heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và toàn bộ các vỏ bao gói.

3.2. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel của bị cáo Nông Minh T2 (các tên gọi khác: Nông Khánh T2, Nông Văn T2, Nông Mạnh T2);

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel của bị cáo Nông Đức M (tên gọi khác: M N).

3.3. Trả lại cho bị cáo Nông Đức M (tên gọi khác: M N):

+ 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Nông Đức M;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Goldberg đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.

3.4. Trả lại cho bị cáo Nông Minh T2 (các tên gọi khác: Nông Khánh T2, Nông Văn T2, Nông Mạnh T2):

+ Số tiền 1.545.000đ (một triệu năm trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) được để trong 01 (một) phong bì thư niêm phong ký hiệu “tiền Nông Minh T2”.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/01/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Nông Đức M (tên gọi khác: M N) và bị cáo Nông Minh T2 (các tên gọi khác: Nông Khánh T2, Nông Văn T2, Nông Mạnh T2), mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2020/HS-ST

Số hiệu:11/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về