TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 111/2023/HS-ST NGÀY 20/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 107/2023/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2023/QĐST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Phan Thanh T, sinh ngày 13/5/1972 tại tỉnh T.
Nơi cư trú: thôn Tân Lạc, xã Đông Hoàng, huyện H, tỉnh T Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
Con ông Phan Xuân Vịnh (được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba) và bà Hồ Thị Tơ (đã chết), có vợ là Nguyễn Thị Hương, có 03 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2007.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 16/5/2023 đến ngày 22/5/2023 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T, tỉnh T. Có mặt.
* Người chứng kiến:
- Ông Lê Thanh T1, sinh năm 1970, trú tại số nhà 08, đường V, tổ 18, phường Q, thành phố T. Vắng mặt.
- Ông Dương Ngọc H, sinh năm 1985, trú tại số nhà 10, tổ 05, phường X, thành phố T. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 16/5/2023, Phan Thanh T đi xe buýt từ nhà đến khu vực sau bến xe khách Hoàng Hà, thuộc phường Tiền Phong, thành phố T, tỉnh T với mục đích mua ma túy về sử dụng. Đến nơi, Phan Thanh T gặp một người nam giới không quen biết hỏi mua được 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng sau đó đi tìm nơi để sử dụng. Khi Phan Thanh T đi bộ trên đường Trần Phú đến khu vực tổ 10, phường Trần Hưng Đạo, thành phố T, thì bị tổ công tác Công an thành phố T phát hiện bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của hai người chứng kiến, Phan Than Tùng đã tự giác giao nộp từ lòng bàn tay trái cho tổ công tác 01 gói ma túy được gói trong giấy bạc màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chất bột màu trắng dạng cục, Tùng khai nhận là Heroin, Tùng mua để sử dụng cho bản thân.
Bản kết luận giám định số 704/KL-KTHS, ngày 22/5/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: mẫu gửi giám định quản lý của Phan Thanh T là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1701 gam (Không phẩy một nghìn bẩy trăm linh một gam) (bút lục số 15).
Tại bản cáo trạng số 114/CT- VKSTPTB ngày 20 tháng 6 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T truy tố Phan Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Phan Thanh T thành khẩn khai nhận hành vi đã thực hiện. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Thanh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 38, điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ 16/5/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của Phan Thanh T còn lại sau giám định.
Bị cáo đồng ý với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T và nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra và truy tố cũng như tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 16/5/2023, tại khu vực đường Trần Phú, thuộc tổ 10, phường Trần Hưng Đạo, thành phố T, Phan Thanh T bị bắt quả tang đang tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1701 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến độc quyền quản lý các chất gây nghiện của nhà nước, làm lan tràn tệ nạn ma túy trong cộng đồng, gây nhiều tác động xấu đến xã hội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vì mắc nghiện nên vẫn cố ý tàng trữ ma túy để thỏa mãn nhu cầu không chính đáng của bản thân. Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến và còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do vậy hành vi của Phan Thanh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm ...
C, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam...”.
[3] Như vậy Viện kiểm sát thành phố T truy tố bị cáo Phan Thanh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự, bị cáo khai báo thành khẩn, có bố đẻ là người có công với cách mạng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự còn quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm", xét bị cáo Tùng không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng của vụ án: Theo quy định tại Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Số ma túy tịch thu của Phan Thanh T còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ, sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy Phan Thanh T khai mua của một người nam giới không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106; Điều 136 Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt bị cáo Phan Thanh T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/5/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của Phan Thanh T còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 704/KL – KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.
(Vật chứng trên có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T ngày 20/6/2023).
4. Về án phí: Bị cáo Phan Thanh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Phan Thanh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 20/7/2023.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 111/2023/HS-ST
Số hiệu: | 111/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về