Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 107/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 107/2021/HSST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 100/2021/TLST-HS, ngày 23 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân th nh phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo:

Dương Văn Q, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 20 tháng 3 năm 1993 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Văn B và bà Vi Thị S; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Bị cáo chưa lần nào bị kết án, chưa lần nào bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/6/2021 đến ngày 27/6/2021, tạm giam từ ngày 28/6/2021 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Dương Văn L, trú tại: Thôn T, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Trần Minh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 25/6/2021, Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đang l m nhiệm vụ tại khu vực đường Đ, phường C, thành phố Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Dương Văn Q có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện trong lòng bàn tay phải Dương Văn Q 01 túi ni lon màu xanh bên trong có 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, Dương Văn Q khai nhận đó là chất ma túy heroine do bạn của Q cho để cùng nhau sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng có liên quan, đồng thời tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 12D1- 138.70, hiệu HONDA RSX màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh xám; 442.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám định số: 245/KL-PC09, ngày 26/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 01 gói giấy gửi giám định là chất ma túy heroine có tổng khối lượng 0,183 gam (đã trừ bì).

Quá trình điều tra đã xác định được: Dương Văn Q là người nghiện chất ma túy từ năm 2021. Khoảng 07 giờ ngày 25/6/2021, Quý điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12D1- 138.70, hiệu HONDA RSX màu trắng đi từ nhà đến chợ Đ, thành phố Lạng Sơn để mua quần áo, khi đến Q gửi xe mô tô tại bãi gửi xe của chợ. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Q ra khu vực cổng chợ Đ, đường N, phường Đ, thành phố Lạng Sơn uống nước thì gặp một nam thanh niên (không rõ lai lịch) đi xe mô tô đến và nói vừa mua được 200.000 đồng ma túy heroin và rủ Q cùng sử dụng. Q đồng ý và ngồi lên xe nam thanh niên cùng đi đến khu vực phường C, thành phố Lạng Sơn để sử dụng ma túy. Khi đến khu vực Ki ốt số 6, chợ C, đường Đ, phường C, thành phố Lạng Sơn thì nam thanh niên bảo Q xuống xe chờ người này đi mua xi lanh v nước cất, Q cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải đứng chờ nam thanh niên thì bị bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Dương Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, mục đích tàng trữ chất ma túy để sử dụng.

Với nội dung vụ án như trên, tại bản Cáo trạng số 105/CT-VKS, ngày 20/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Dương Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như bản Cáo trạng nêu, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Dương Văn L trình bày: Anh đang đi làm Công ty ở tỉnh Bắc Ninh, anh để lại xe mô tô biển kiểm soát 12D1- 138.70 ở nhà , đây là xe của cá nhân anh. Ngày 25/6/20121, anh Dương Văn Q tự ý lấy xe đi, nay xe đang bị tạm giữ trong vụ án, anh đề nghị trả lại xe.

Đại diện Viện kiểm sát đánh giá đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội như Cáo trạng truy tố, nên giữ nguyên kết luận truy tố v đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Dương Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo mức án từ 13 (mười ba) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền.

Về xử lý vật chứng, áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong, 01 túi nilon màu trắng (đã qua sử dụng). Trả lại bị cáo Dương Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ màu xanh xám số Imei: 358322034069563 (máy cũ đã qua sử dụng), 442.000 đồng do không liên quan hành vi phạm tội.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 dồng.

Xe mô tô biển kiểm soát 12D1- 138.70, hiệu HONDA RSX, số khung: RLHJA3211EY048107, số máy: JA32E1088814 thuộc sở hữu của anh Dương Văn L, đề nghị trả lại xe mô tô cho anh Lâm.

Phần thủ tục tranh luận, bị cáo Dương Văn Q, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhất trí với luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và không có lời bào chữa.

Đại diện Viện kiểm sát không tranh luận.

Lời nói sau cùng, bị cáo nhận biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là sai phạm, bị cáo mong được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có căn cứ xác định: Hồi 10 giờ 45 phút ng y 25/6/2021, tại khu vực đường Đ, phường C, thành phố Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Dương Văn Q tàng trữ chất ma túy heroine tổng khối lượng 0,183 gam mục đích để sử dụng.

[4] Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Dương Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo như sau:

[6] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về quản lý chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo làm mất trật tự xã hội, làm gia tăng tội phạm về ma túy, góp phần là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án v tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã thực hiện, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[10] Đánh giá các căn cứ quyết định hình phạt như trên, thấy cần thiết xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[11] Về hình phạt bổ sung: Qua kết quả xác minh của cơ quan điều tra tại Biên bản xác minh ngày 26/7/2021 thì bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, là người nghiện chất ma túy. Nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[12] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong do đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và các vật chứng liên quan đến việc sử dụng chất ma túy gồm 01 túi nilon màu trắng (đã qua sử dụng). Trả lại bị cáo Dương Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh xám số Imei: 358322034069563 (máy cũ đã qua sử dụng), 442.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội. Xe mô tô biển kiểm soát 12D1- 138.70, hiệu HONDA RSX, số khung: RLHJA3211EY048107, số máy: JA32E1088814, bị cáo điều khiển xe đi ra chợ Đ nhưng không nói với gia đình mục đích đi sử dụng ma túy. Xe mô tô này đứng tên chủ xe là Dương Văn L (em trai của bị cáo), nên trả lại xe cho anh Dương Văn L.

[13] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[14] Ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[15] Theo lời khai của bị cáo được cùng 01 đối tượng nam giới rủ đi sử dụng ma túy, nhưng bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người này, nên không có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.

[16] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ v o điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, khoản 1 khoản 2 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 1, 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý v sử dụng án phí v lệ phí Tòa án.

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Dương Văn Q 15 (mười lăm) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ng y bị cáo bị tạm giữ 25/6/2021.

3. Xử lý vật chứng:

a) Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: Ma túy heroine còn lại sau khi trích mẫu giám định đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký v dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn;

b) Trả lại bị cáo Dương Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh xám, số Imei: 358322034069563 (máy cũ đã qua sử dụng); 442.000 (bốn trăm bốn mươi hai nghìn) đồng.

c) Trả lại anh Dương Văn L 01 xe mô tô biển kiểm soát 12D1- 138.70, hiệu HONDA RSX, số khung: RLHJA3211EY048107, số máy: JA32E1088814.

(Các vật chứng trên đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/8/2021 giữa Công an thành phố và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Án phí: Buộc bị cáo Dương Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ng y tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 107/2021/HSST

Số hiệu:107/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về