Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 106/2021/HS-ST NGÀY 10/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10 tháng 12 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân thị xã Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 112/2021/HSST, ngày 21 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên:

NGUYN VĂN K – Sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Khối CS, phường ĐNB, thị xã Đ, tỉnh Q. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không.

Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12.

Con ông Nguyễn Văn Í và con bà Lê Thị Th.

Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thùy D và có 01 con sinh năm 2006.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Quyết định số 182/QĐ-XPVPHC ngày 08/5/2020, bị Công an thị xã Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép, phạt số tiền 1.500.000đ, nộp phạt ngày 20/5/2020.

Bắt tạm giữ ngày 10/7/2021, chuyển tạm giam ngày 17/7/2021 (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

2. Họ và tên: PHAN VĂN Đ – Sinh năm 1996.

Nơi cư trú: Khối CS, phường ĐNB, thị xã Đ, tỉnh Q. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không.

Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 10/12. Con ông Phan Văn T và con bà Võ Thị L.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bắt tạm giữ ngày 10/7/2021, chuyển tạm giam ngày 17/7/2021 (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án :

Bà Võ Thị L- Sinh năm 1975 (có mặt)

Nơi cư trú: Khối CS, phường ĐNB, thị xã Đ, tỉnh Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lúc 19 giờ 00 phút ngày 10/7/2021, Tổ công tác Công an phường Điện Nam Bắc, thị xã Đ phát hiện tại cánh đồng thuộc khối phố Cẩm Sa có 02 nam thanh niên đang ngồi tại đây. Qua kiểm tra, trên bàn chỗ vị trí 02 thanh niên ngồi có 01 túi ni lông trong suốt, kích thước 3,5x4cm bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng và 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy. Qua làm việc 02 thanh niên khai tên là Nguyễn Văn K và Phan Văn Đ khai nhận, túi ni lông chứa chất rắn màu trắng bị Cơ quan Công an phát hiện là ma túy đá mà K và Đ mỗi người góp 150.000 đồng vào để mua đem về để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn K và Phan Văn Đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 10/7/2021, K sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen gắn sim số 0703.564.xxx của K liên lạc đến số điện thoại 0941.343.xxx của Đ nói Đ cùng nhau góp tiền mua ma túy đá sử dụng, lúc này Đ đang chạy xe đi làm về nên nói là không có tiền. Đến khoảng 18h00 cùng ngày khi về đến cây xăng phường Điện Nam Bắc, Đ dùng điện thoại di động hiệu Nokia 150 gọi đến số điện thoại của K nói K ra góp tiền mua ma túy. Sau đó, K ra điểm hẹn gặp Đ tại cây xăng rồi cả hai thống nhất mua 300.000 đồng ma túy đá, K góp 150.000 đồng và Đ góp 150.000 đồng. Đ cầm tiền rồi liên lạc cho một người tên Nhỏ (không rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, người này đồng ý và nói Đ đến khu vực ngã tư Điện Ngọc giao dịch. Sau đó, Đ điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, màu xanh, biển số 43H1-xxxxx đi mua ma túy, trên đường đi K liên lạc nói Đ đến cánh đồng thuộc khối phố Cẩm Sa, phường Điện Nam Bắc để sử dụng ma túy, còn K đến trước ngồi đợi. Sau đó, Đ đến ngã tư Điện Ngọc gặp người tên Nhỏ đi xe ô tô màu trắng đến (không rõ loại xe, biển số), Đ đưa tiền và nhận từ người này 01 túi ni lông trong suốt kích thước 3,5x4cm bên trong chứa ma túy đá. Lúc này, Đ có xin thêm 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá của Nhỏ. Mua ma túy xong, Đ mang về vị trí đã hẹn gặp K, Đ để gói ma túy đá và bộ dụng cụ sử dụng ma túy trên bàn (bàn đã cũ, có sẵn từ trước). Trong lúc cả hai đang chuẩn bị sử dụng ma túy đá thì bị Công an phường Điện Nam Bắc kiểm tra phát hiện.

Bản kết giám định số 910/C09C-Đ2 ngày 15/7/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Chất rắn màu trắng dạng tinh thể trong niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu là 0,29gam.

Tại bản Cáo trạng số: 97/CT-VKS, ngày 19/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ thì bị cáo Nguyễn Văn K và Phan Văn Đ bị truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện VKSND thị xã Đ trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo K và Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo K từ 24 tháng đến 30 tháng tù; bị cáo Đ từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 10/7/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên K và Đ góp mỗi người 150.000 đồng, tổng cộng 300.000 đồng rồi Đ sử dụng số tiền này đi mua ma túy đá của một người tên Nhỏ (không rõ nhân thân, lai lịch) mang về cánh đồng thuộc khối phố Cẩm Sa, phường Điện Nam Bắc, thị xã Đ để cả hai sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Tang vật thu giữ là 0,29 gam Methamphetamine.

Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 20 giờ 45’ ngày 10/7/2021, phù hợp với tang vật vụ án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Đồng thời qua tranh luận các bị cáo đồng ý với lời luận tội đề nghị kết tội của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Do đó quyết định truy tố của VKSND thị xã Đ và lời luận tội đề nghị kết tội của Kiểm sát viên trong phần tranh luận đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật và được HĐXX chấp nhận.

[3] Đánh giá, tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Ma túy là một loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt, sử dụng trái phép chất ma túy. Các bị cáo đã nhận thức rõ điều đó nhưng bất chấp pháp luật rủ nhau chung tiền mua ma túy về sử dụng thì bị phát hiện. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của các bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Do đó có đầy đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Văn K và Phan Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng như cáo trạng truy tố của VKSND thị xã Đ, tỉnh Q.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi vụ án phát hiện các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo K và Đ hoàn cảnh gia đình hiện nay khó khăn có đơn xác nhận của chính quyền địa phương. Do đó HĐXX xem xét tình tiết giảm nhẹ của từng bị cáo khi quyết định hình phạt, nhưng cần phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người tốt cho xã hội, trong vụ án này bị cáo K là người khởi xướng việc mua ma túy về sử dụng và có nhân thân xấu nên cần phải áp dụng hình phạt K cao hơn Đ là đúng quy định của pháp luật.

Đối người người thanh niên tên Nhỏ đã bán ma túy cho Đ, do Đ khai không rõ nhân thân, lai lịch nên không có sở điều tra, xử lý theo quy định.

[5] Xét về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng sau: 01 phong bì màu trắng số 910/C09C-Đ2 của Phân viện KHHS tại TP Đà Nẵng (sau giám định đã niêm phong); 01 sim số 0703.564.xxx của K; 01 sim số 0931.143.xxx, 01 sim số 0941.343.xxx của Đ, 01 nỏ thủy tinh; 01 bật lửa và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình nhựa, 01 nỏ thủy tinh, 01 đoạn ống hút màu trắng tím.

K sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen liên lạc với Đ qua điện thoại di động hiệu Nokia 150 trong quá trình phạm tội, cần phải tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 2 điện thoại nêu trên là đúng pháp luật.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Exciter, màu xanh, biển kiểm soát 43H1-xxxxx: Qua xác minh, xe mô tô này do ông Mai Thanh K đứng tên chủ sở hữu. Vào đầu năm 2020, bà Võ Thị L mua lại xe của ông K nhưng chưa sang tên theo quy định. Ngày 10/7/2021, Đ dùng xe trên làm phương tiện đi mua ma túy bà L không biết nên không có cơ sở tịch thu, Cơ quan điều tra đã hoàn trả xe cho bà L là đúng quy định của pháp luật.

[6] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Bị cáo K và Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K và Phan Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

1/Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 10/7/2021).

2/Xử phạt: Bị cáo Phan Văn Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 10/7/2021).

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì màu trắng số 910/C09C-Đ2 của Phân viện KHHS tại TP Đà Nẵng (sau giám định đã niêm phong); 01 (một) sim số 0703.564.xxx của Nguyễn Văn K; 01 (một) sim số 0931.143.xxx và 01 (một) sim số 0941.343.xxx của Phan Văn Đ; 01 (một) nỏ thủy tinh; 01 (một) bật lửa; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 (một) nỏ thủy tinh, 01 (một) bình nhựa và 01 (một) đoạn ống hút màu trắng tím;

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 150 màu đen của Phan Văn Đ và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen của Nguyễn Văn K.

(vật chứng hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đ đang tạm giữ tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/10/2021).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Phí và lệ phí, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Nguyễn Văn K và Phan Văn Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm các bị cáo và người tham gia tố tụng khác có quyền làm đơn kháng cáo gửi lên Tòa án nhân dân tỉnh Q để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HS-ST

Số hiệu:106/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về