Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 24/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 8 năm 2022 tại Bản Đầu Nậm Xả, xã B, huyện M, tỉnh L. Tòa án nhân dân huyện M xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 110/2022/TLST- HS ngày 09 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2022/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Ly Xạ Đ- tên gọi khác: Không, giới tính: Nam Sinh năm 1982, tại huyện M, tỉnh L;

Nơi ĐKHKTT: Bản B, xã P, huyện M, tỉnh L; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Dân tộc: La Hủ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Con ông: Ly Xa S (đã chết) và bà Pờ Phi X- sinh năm 1962; Bị cáo có vợ Vàng Hừ X- sinh năm 1984; Bị cáo có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 13/4/2022 đến ngày 16/4/2022 chuyển tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh L đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Vàng Hừ X, sinh năm 1984. Địa chỉ: Bản B, xã P, huyện M, tỉnh L. Vắng mặt.

Người làm chứng: Ly Chà L, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Bản B, xã P, huyện M, tỉnh L. Vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H- Trợ giúp viên thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh L. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 13/4/2022, Ly Xạ Đ, sinh năm 1982, dùng xe mô tô BKS: 25M1- 097.., nhãn hiệu Honda, lọai xe Wave RSX màu sơn đen - xanh chở Vàng Hừ X, sinh năm 1984 (vợ của Đ) và Ly Chà L, sinh năm 1983 cùng trú tại bản B, xã P, huyện M từ nhà đi đến bản N, xã M để ăn bún. Sau khi ăn bún xong, Đ bảo với X và L ngồi tại quán bún đợi Đ, Đ đi bản P, xã M có việc (Đ không nói cho X và L biết là Đ đi mua Heroine). Đ một mình điều khiển xe mô tô đi đến bản P, xã M. Tại đây Đ vào lán nương (Đ không biết lán nương của ai) thì gặp một người đàn ông lạ mặt (không rõ nhân thân, lai lịch), qua trao đổi Đ mua được của người đàn ông này 02 gói Heroine, bên ngoài mỗi gói đều được gói bằng các mảnh nilon màu xanh với giá 3.000.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, Đ xin được của người đàn ông này 01 túi nilon màu xanh rồi xé lấy một mảnh để gói 02 gói Heroine mà Đ mới mua được thành 01 gói rồi cất giấu vào trong cốp xe mô tô của Đ. Cất giấu Heroine xong, Đ điều khiển xe mô tô đi đến quán bún để đón X và L rồi về nhà (Đ không nói cho X và L biết việc Đ tàng trữ và cất giấu Heroine trong cốp xe môt tô). Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi Đ, X và L đi đến khu vực bản M, xã P, huyện M thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng xã P phát hiện bắt quả tang và thu giữ của Đ 02 gói Heroine có tổng khối lượng 7,61 gam; 01 xe mô tô và 01 chìa khóa xe mô tô.

Tại kết luận giám định tư pháp số 02/KLGĐ ngày 14/4/2022 của người giám định tư pháp theo vụ việc thuộc Công an huyện M kết luận: Vật chứng thu giữ của Ly Xạ Đ có tổng khối lượng là 7,61 gam heroine.

Tại bản kết luận giám định số: 322/KL-KTHS ngày 15/4/2022 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: 02 mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu từ mẫu 01, mẫu 02) thu giữ của Ly Xạ Đ gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 67/CT- VKS- MT ngày 08/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố bị cáo Ly Xạ Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Ly Xạ Đ. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Ly Xạ Đ mức án từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù.

Không áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự là phạt tiền đối với bị cáo do hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Về vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu 5,97 gam heroine còn lại sau giám định; 03 mảnh nilon màu xanh để tiêu hủy.

Đề nghị tịch thu 1/2 chiếc xe mô tô là phương tiện dùng vào việc phạm tội và trả lại cho Vàng Hừ X 1/2 chiếc xe mô tô vì đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo.

Tại phiên tòa Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng, nội dung bản luận tội. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét cho bị cáo mức án phù hợp, thấp nhất của khung hình phạt và xin miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Đề nghị xin lại chiếc xe máy cho gia đình bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin vắng mặt nhưng đề nghị xem xét xin lại tài sản là 01 chiếc xe.

Tại phiên tòa bị cáo Ly Xạ Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhất trí với nội dung truy tố trong cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện M về tội danh, điều luật áp dụng, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Để thỏa mãn cơn nghiện của mình, bị cáo đã có hành vi mua Heroine để sử dụng dần, bị cáo nhận thức được hành vi của mình tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo đã thành khẩn khai báo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bào chữa cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên Tòa và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, biên bản khám xét, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Tòa án đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 13/4/2022 tại khu vực bản M, xã P, huyện M, Ly Xạ Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép 7,61 gam Heroine để sử dụng thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng P phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo Ly Xạ Đ là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi phạm tội của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn nhu cầu cá nhân và để hưởng lợi mà vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm khác.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, ngoài ra còn là lao động chính trong gia đình. Nên cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và nhân thân của bị cáo về hành vi phạm tội của mình. Hội đồng xét xử xét thấy cần có một mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội đồng thời để nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, đảm bảo công tác phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó mức hình phạt như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là hoàn toàn phù hợp, cần chấp nhận. Đề nghị của người bào chữa xem xét cho bị cáo mức án phù hợp, thấp nhất của khung hình phạt là không đảm bảo tính răn đe, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

Về nguồn gốc Heroine bị thu giữ: Bị cáo khai đã mua của người đàn ông lạ mặt không rõ nhân thân lai lịch với giá 3.000.000 đồng. Quá trình điều tra, không xác định được người đàn ông đã bán Heroine cho Ly Xạ Đ là ai, ngoài lời khai của bị cáo, không còn chứng cứ nào khác, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Vàng Hừ X và Ly Chà L là người đi xe cùng Ly Xạ Đ. Quá trình điều tra, xác định X và L không biết việc Đ tàng trữ Heroine nên X và L không phạm tội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Vàng Hừ X có đơn xin vắng mặt và đề nghị được xin lại chiếc xe máy vì đây là tài sản duy nhất của gia đình. Theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự thì đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe tương đương với phần của bị cáo. Đề nghị của chị Vàng Hừ X không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, xét thấy điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, không có điều kiện thi hành, Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số Heroine còn lại 5,97 gam sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 03 mảnh nilon không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, màu sơn xám-đen, BKS: 25M1-097…, Số khung 3808GY130496; Số máy JA38E0383168 và 01 chìa khóa bị cáo dùng để đi mua và cất giấu Heroine nhưng lại là tài sản chung của gia đình bị cáo. Căn cứ vào 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe máy, trả lại 1/2 giá trị chiếc xe máy còn lại cho vợ bị cáo là Vàng Hừ X khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[6] Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH14. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Quyền kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định tại các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Ly Xạ Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Ly Xạ Đ 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2022.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

2. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bằng phong bì do bưu điện phát hành, mặt trước gói niêm phong ghi 5,97 gam Heroine; 03 mảnh nilon màu xanh.

Tịch thu bán hóa giá sung quỹ Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, màu sơn xám- đen, BKS: 25M1-097…, Số khung 3808GY130496; Số máy JA38E0383168 và 01 chìa khóa. Trả lại 1/2 giá trị chiếc xe máy còn lại cho vợ bị cáo là Vàng Hừ X khi bản án có hiệu lực pháp luật.

(Vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện M và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện M ngày 09/8/2022).

3. Án phí: Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Ly Xạ Đư.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã P, huyện M, tỉnh L.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về