Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 103/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 97/2023/TLST-HS ngày 12/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2023/QĐXXST-HS ngày 14/9/2023 đối với bị cáo:

An Văn H, sinh năm 1977 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ dân phố C, phường G, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông An Xuân B (đã chết) và bà Lưu Thị Q; có vợ là Lê Thị H, sinh năm 1977 (đã ly thân) và có 03 con, con lớn nhất đã chết, con nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 03/11/2015, Công an huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi:

Công nhiên chiếm đoạt tài sản”. Ngày 28/7/2016, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 07/8/2023, tạm giam từ ngày 13/8/2023 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 07/8/2023, An Văn H từ nhà đi bộ ra quán nước ven đường thuộc phường Hòa Mạc, thị xã Duy Tiên thì gặp một thanh niên khoảng 30 tuổi (H không biết tên tuổi, địa chỉ). Trong lúc nói chuyện người thanh niên hỏi H: “Anh có tiền không đi làm một tý ”, H hiểu ý người thanh niên rủ góp tiền đi mua ma túy để cùng sử dụng nên đồng ý nói: “Anh còn có ba mươi nghìn, chú có thì cho anh chung”, người thanh niên lại nói: “Vậy cũng được, lần sau nếu em không có thì anh cho em chung với nhé”. Thấy người thanh niên nói vậy, H lấy ra số tiền 30.000đồng đưa cho người thanh niên rồi cả hai cùng thuê xe ôm đi đến thành phố Phủ Lý để mua ma túy. Khi đi đến khu vực thôn Phú Ngòi, xã Tiên Hiệp, thành phố Phủ Lý, người thanh niên bảo người lái xe ôm dừng xe để H xuống xe đứng đợi rồi cùng người lái xe ôm lại đi tiếp. Khoảng 20 phút sau, người thanh niên quay lại đưa cho H 01 gói giấy bạc màu vàng và nói: “Em chơi ở chỗ mua rồi, còn phần của anh đây”. H cầm gói giấy bạc người thanh niên đưa cho mở ra xem thấy bên trong có chất bột màu trắng dạng cục, biết đó là ma túy nên H liền gói lại, cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi cùng người thanh niên đi bộ quay về. Khi đi được một đoạn thì H và người thanh niên bị lực lượng Công an phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý kiểm tra hành chính, người thanh niên liền bỏ chạy thoát còn H bắt giữ quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Vật chứng thu giữ của vụ án gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01.

Tại bản Kết luận giám định số 525/KL-KTHS ngày 11/8/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam đã kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,355gam, loại Heroine”.

Bản Cáo trạng số 103/CT-VKS-PL ngày 11/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố An Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo An Văn H, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự:

- Hình phạt chính: Xử phạt An Văn H từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo An Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo An Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng, lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 07/8/2023, tại khu vực thôn Phú Ngòi, xã Tiên Hiệp, thành phố Phủ Lý, An Văn H bị lực lượng Công an phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện, bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,355 gam chất ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

4.1. Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; nhân thân xấu do đã từng bị kết án phạt tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã được xóa án tích); bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi:“Công nhiên chiếm đoạt tài sản” (đã hết thời hạn coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

4.2. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ Luật Hình sự.

4.3. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội đã thực hiện; bị cáo có người thân (bố đẻ) là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

5.1. Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Bị cáo là người đã từng bị kết án về tội phạm ma túy nhưng đã không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh, tu dưỡng bản thân mà vẫn tiếp tục vi phạm do cố ý, thể hiện bản chất coi thường pháp luật. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm.

5.2. Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập, tài sản riêng; phạm tội không vì mục đích vụ lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Về tình tiết khác: Đối với người thanh niên khoảng 30 tuổi theo bị cáo khai là người đã góp tiền đi mua ma túy và đưa ma túy cho bị cáo để cất giấu, do bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành việc xác minh để làm rõ nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch địa chỉ của người thanh niên như bị cáo đã khai nên không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật là có cơ sở.

[7] Về xử lý vật chứng đã thu giữ: Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, các Điều 329, 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố bị cáo An Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07/8/2023.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 525/KTHS, phong bì có chữ ký, dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam. Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 12/9/2023.

3. Án phí: Bị cáo An Văn H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2023/HS-ST

Số hiệu:103/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về