Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN TỈNH NGHỆ AN

 BẢN ÁN 100/2021/HS-ST NGÀY 18/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2021/TLST-HS, ngày 24 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2021 đối với:

Bị cáo Vi Thị Th. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 15 tháng 11 năm 1992 tại xã CL, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản KhN, xã ChL, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Tr (đã chết) và bà Vi Thị Ph. Chồng: Không; con có 02 con lớn nhất sinh năm 2009 nhỏ nhất sinh năm 2017.

Tiền án; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/01/2018 đến ngày 24/01/2018 thì được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (lý do nuôi con dưới 36 tháng tuổi) và bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 23/5/2021 bị cáo ra đầu thú và bị bắt tạm giữ, tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Công Thiết. Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Ngân Văn H, Sinh năm 1988. Nơi cư trú: Bản C, xã ChL, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 15/01/2018, Vi Thị Th thuê xe lai của một người đàn ông không quen biết đi từ bản Khe Nằn, xã Chiêu Lưu, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xuống bản Pủng, xã Lưu Kiền, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An để mua ma túy. Khi đến nơi, Th gặp rồi mua của một người đàn ông không quen biết 05 (năm) viên ma túy tổng hợp với số tiền 500.000 đ (năm trăm nghìn đồng). Mua được ma túy, Th thuê xe lai quay về và vào chơi tại nhà của anh Vi Văn Nghĩa tại bản Khe Nằn, xã Chiêu Lưu. Tại đây, Th gặp Lo Văn Ồn (trú cùng bản) cùng với một người tên Hằng và một người tên Xáo, ngồi chơi một lúc thì Lo Văn Ồn lấy 01 (một) gói ma túy (Heroine) cùng với người đàn ông tên Xáo và Vi Thị Th sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lo Văn Ồn và người đàn ông tên Xáo 01 (một) gói chất màu trắng (nghi là Heroine), thu giữ của Vi Thị Th 05 (năm) viên nén màu hồng (nghi là ma túy). Tại thời điểm bị khởi tố, điều tra Vi Thị Th đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên Cơ quan điều tra đã áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Tuy nhiên,Vi Thị Th không chấp hành mà đã bỏ trốn khỏi địa phương và bị truy nã theo quyết định số 03/QĐ ngày 09/4/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn đến ngày 23/5/2021 thì ra đầu thú.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 16/01/2018 đã xác định: Số viên nén màu hồng (nghi là ma túy) thu giữ của Vi Thị Th có khối lượng là 0,5g (không phẩy năm gam). Hội đồng đã trích 01 (một) viên nén màu hồng có khối lượng là 0,1g (Không phẩy một gam) để gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 223/KL-PC54(MT) ngày 19/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Vi Thị Th gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine).

Cáo trạng số 82/CT-VKS-KS ngày 22/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An truy tố Vi Thị Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vi Thị Th mức án từ 15 (Mười lăm) tháng đến 20 (Hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo không tranh luận gì về tội danh và điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, là người đang nuôi con nhỏ, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

Tại phiên tòa, bị cáo Vi Thị Th thừa nhận hành vi vi phạm của mình, đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Vi Thị Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/01/2018, tại bản Khe Nằn, xã Chiêu Lưu, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn bắt quả tang Vi Thị Th đang có hành vi tàng trữ 05 (năm) viên ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 0,5g (không phẩy năm gam) nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; Nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Bị cáo có tuổi đời còn trẻ không chịu khó lao động để trở thành người có ích cho xã hội mà bị cáo lại nghiện ma túy, khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, mặt khác bị cáo là một người mẹ đáng lẽ phải là người làm gương để nuôi dưỡng con cái tránh xa các chất ma túy, nhưng bị cáo lại bất chấp và nghiện ma túy, đồng thời quá trình khởi tố, điều tra bị cáo được tại ngoài vì đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nhưng bị cáo không chấp hành theo quy định mà lại bỏ trốn khỏi địa phương gây khó khăn cho công tác điều tra. Vì vậy, hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vi Thị Th đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và ra đầu thú, nên xét thấy cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập, không có công việc ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo là có căn cứ.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 (Một) phong bì thư viền xanh đỏ, được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của bị cáo Vi Thị Th, bên trong chứa số ma túy (methamphetamine) có khối lượng còn lại là 0,4 g (Không phẩy bốn gam) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[6] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Vi Thị Th, quá trình điều tra xác minh không xác định được danh tính cụ thể nên chưa có căn cứ để xử lý, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra khi nào có kết quả sẽ được xử lý sau. Đối với Lo Văn Ồn và người đàn ông tên Xáo là những người bị bắt quả tang khi đang sử dụng ma túy với Vi Thị Th, tuy nhiên tại thời điểm bị bắt quả tang số ma túy các đối tượng đã sử dụng hết nên Cơ quan điều tra đã giao cho gia đình quản lý, giáo dục. Đối với Vi Văn Nghĩa là chủ ngôi nhà mà Vi Thị Th cùng các đối tượng sử dụng ma túy, tuy nhiên tại thời điểm đó gia đình Vi Văn Nghĩa không có ai ở nhà nên không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8]. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng và tội danh: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vi Thị Th:

18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 23/5/2021 nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 15/01/2018 đến ngày 24/01/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì thư viền xanh đỏ, được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của bị cáo Vi Thị Th, bên trong chứa số ma túy (methamphetamine) có khối lượng còn lại là 0,4 g (Không phẩy bốn gam) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu. (Đặc điểm, tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/6/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Thị Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2021/HS-ST

Số hiệu:100/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về