Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 09/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 10/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 10 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh T1 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 193/2021/HSST ngày 15 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 209/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo: Đng Đức T, sinh ngày 27/6/1986 tại T1. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh T1. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đặng Xuân M và bà Phạm Thị T2;

vợ, con: Chưa có; nhân thân: Bản án hình sự số 149/2012/HS-ST ngày 10/09/2012 của Tòa án nhân dân thành phố T1, tỉnh T1 xử phạt bị cáo 24 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 03375 ngày 30/9/2016 của Công an huyện Đ2, tỉnh T1 xử phạt Cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04562 ngày 30/12/2018 của Công an huyện Đ2, tỉnh T1 xử phạt Cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; tiền án: 02 tiền án: Bản án hình sự số 79/2016/HSST ngày 15/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đ2, tỉnh T1 xử phạt bị cáo 15 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/11/2017, chấp hành xong án phí ngày 10/3/2017. Bản án hình sự số 10/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ2, tỉnh T1 xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phí hình sự ngày 09/5/2019. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/02/2020; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/10/2021 đến ngày 10/10/2021 chuyển tạm giam đến nay.

* Người chứng kiến:

- Ông Phạm Duy S, sinh năm 1946;

Nơi cư trú: Số nhà 05/36, ngõ 537, đường L, tổ 19, phường Q, thành phố T1, tỉnh T1.

- Ông Tống Gia N, sinh năm 1952;

Nơi cư trú: Số nhà 100, đường P, tổ 18, phường Q, thành phố T1, tỉnh T1.

(Ti phiên tòa có mặt bị cáo, vắng mặt ông Súy, ông Nậm).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ 30 phút ngày 07/10/2021 Đặng Đức T đi xe buýt từ nhà đến khu vực ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố T1 với mục đích mua ma túy để sử dụng. Tại đây T gặp và hỏi mua của một người nam giới không biết tên, tuổi và địa chỉ 400.000 đồng được 02 gói ma túy. T đi tìm chỗ để sử dụng, khi đang đi tại khu vực ngõ 02, đường H, tổ 11, phường Q, thành phố T1 thì T bị tổ công tác Công an phường Q, thành phố T1 phát hiện bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của ông Phạm Duy S và ông Tống Gia N, T đã tự giao nộp cho tổ công tác 02 gói, T khai là Hêrôin của T vừa mua mục đích để sử dụng. Tổ công tác quản lý của T 01 căn cước công dân mang tên Đặng Đức T.

Ti bản kết luận giám định số 400/KLGĐMT - PC09 ngày 08/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi “Vật chứng quản lý của Đặng Đức T, sinh năm 1986, Đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh T1, ngày 07/10/2021” gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1542 gam.

Ti phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bản cáo trạng số 04/CT-VKSTPTB ngày 14/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh T1 truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điu 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo từ 05 năm 03 tháng đến 05 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 07/10/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định là 0,1208 gram. Trả lại bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Đặng Đức T.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang. Biên bản niêm phong vật chứng. Kết luận giám định số 400/KLGĐMT - PC09 ngày 08/10/2021. Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến. Các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hi đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 07/10/2021, tại khu vực ngõ 02, đường H, tổ 11, phường Q, thành phố T1, tỉnh T1, tổ công tác Công an phường Q, thành phố T1 bắt quả tang Đặng Đức T có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1542 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tại Bản án hình sự số 10/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ2, tỉnh T1 xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm. Đến thời điểm ngày 07/10/2021 bị cáo chưa được xóa án tích của Bản án số 10/2019/HS-ST ngày 26/02/2019, bị cáo lại có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,1542 gram nên hành vi lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự.

Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

...

o) Tái phạm nguy hiểm;

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị Tòa án đưa ra xét xử, đã bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo không có tiền sự, có 02 tiền án được quy định là tình tiết định khung hình phạt, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh T1 có phần nghiêm khắc đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt.

[7] Về vật chứng của vụ án: Số Heroine còn lại sau giám định là 0,1208 gram thu giữ của bị cáo, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Trả lại bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Đặng Đức T.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của một người nam giới không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố T1, tỉnh T1 nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Đức T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 07/10/2021.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định là 0,1208 gram trong phong bì niêm phong số 400/KLGĐMT- PC09 ngày 08/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Trả lại bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Đặng Đức T.

(Vật chứng Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 16/12/2021).

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (10/01/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về