Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 26/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/02/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2020/HSST ngày 20/01/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐXXST-HS ngày 12/02/2020, đối với bị cáo:

* Trần Anh H (Tên gọi khác: Trần Văn H), sinh năm 1979, tại: K, tỉnh Hưng Yên; nơi cư trú: Xóm 5, thôn Y, xã V, huyện K, tỉnh H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; Con ông Trần Văn M (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Th; Vợ Hoàng Thị Kh, sinh năm 1981, có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 28/2017/HS-ST ngày 07/6/2017, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H xử phạt Hào 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Được ra trại ngày 28/4/2018.

Nhân thân: Ngày 18/11/2013 Công an huyện K xử phạt hành chính H về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bản án số 02/2014/HSST ngày 24/01/2014, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H xử phạt H 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/12/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên, (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị Kh, sinh năm 1981, trú tại: thôn Y, xã V, huyện K, tỉnh H, (có mặt).

Người chứng kiến: Anh Quách Văn A, Anh Nguyễn Chí C và anh Hoàng Khắc S (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 ngày 14/12/2019 tại thôn Đ, xã H, huyện K, tỉnh Hưng Yên, Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên bắt quả tang Trần Anh H (Trần Văn H), sinh năm 1979, HKTT: thôn Y, xã V, huyện K, tỉnh Hưng Yên đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. H tự giao nộp 05 gói giấy bạc (trong đó có 02 gói giấy bạc được bọc trong mảnh nilon màu xanh) bên trong các gói này đều chứa chất màu trắng dạng cục và bột (niên phong ký hiệu MTH), ngoài ra CQĐT còn thu giữ của Hào 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1200 màu đen xám bên trong có lắp 01 thẻ sim liên lạc, số tiền 2.600.000đ, 01 xe đạp màu đen, trên thân xe có in chữ Play town.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Hưng Yên đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Anh H, tại thôn Y, xã V, huyện K, tỉnh Hưng Yên, không phát hiện thu giữ gì.

Kết luận giám định số 660/PC09 ngày 17/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên, kết luận: Chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ghi ký hiệu MTH có tổng khối lượng 8,632gam là ma túy loại heroine.

Quá trình điều tra Trần Anh H khai nhận: Bản thân Hào mắc nghiện ma túy loại Heroine từ cuối năm 2013. Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 14/12/2019 H đi xe đạp từ nhà ra khu vực thôn Đ, xã H, huyện K, tỉnh Hưng Yên mua Heroin về sử dụng. Khi đến nơi H gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), H đưa 1.600.000 đồng thì người đàn ông đưa lại cho Hào 05 gói giấy bạc bên trong là ma túy loại heroine (có 02 gói bọc mảnh nilon màu xanh bên trong bọc giấy bạc). Sau khi mua ma túy, H cất vào túi quần phía trước, bên phải rồi đi xe đạp về nhà, khi đi đến đoạn đường trước cổng làng thôn Đ, xã H, huyện K tiếp giáp với đường 39A thì bị lực lượng Công an kiểm tra, H đã tự nguyện giao nộp 05 gói ma túy vừa mua cho Cơ quan CSĐT-Công an tỉnh Hưng Yên.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho H tại khu vực thôn Đ, xã H, huyện K, tỉnh Hưng Yên, quá trình điều tra H khai không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể người này. Do vậy, không đủ thông tin để xác minh, xử lý.

+ Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: 01 niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định số 660/PC09 ngày 17/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên; 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1200 màu đen xám đã cũ, bên trong lắp 01 thẻ sim liên lạc; 01 xe đạp màu đen, trên thân xe có in chữ Play town; Số tiền 2.600.000 đồng.

Quá trình điều tra H thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 09/CT-VKS-P1 ngày 20/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên truy tố bị cáo Trần Anh H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội và tỏ ra ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản thân, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Đề nghị Hội đồi xét xử, tuyên bố: Bị cáo Trần Anh H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Anh H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/12/2019.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại mẫu vật sau giám định đựng trong 01 niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định số 660/PC09 ngày 17/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên.

- Trả lại cho bị cáo Trần Anh H 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1200 màu đen xám đã cũ, bên trong lắp 01 thẻ sim liên lạc và 01 xe đạp màu đen, trên thân xe có in chữ Play town.

- Trả lại chị Hoàng Thị Kh, sinh năm 1981, trú tại: thôn Y, xã V, huyện K, tỉnh Hưng Yên số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng).

Và các nội dung khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Điều tra - Công an tỉnh Hưng Yên và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ giai đoạn điều tra cho đến phiên tòa sơ thẩm đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Kết luận giám định số 660/PC09 ngày 17/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên và lời khai của những người chứng kiến anh Quách Văn A, anh Nguyễn Chí C và anh Hoàng Khắc S. Do đó, đủ căn cứ kết luận: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 14/12/2019 tại thôn Đ, xã H, huyện K, tỉnh Hưng Yên, Trần Anh H đang có hành vi tàng trữ trái phép 8,632 gam heroine với mục đích để sử dụng, thì bị Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Hưng Yên bắt quả tang.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo tàng trữ trái phép 8,632 gam heroine mục đích để sử dụng, ngoài ra bị cáo đã tái phạm và chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới do lỗi cố ý, do đó bị cáo phải chịu hai tình tiết tăng nặng định khung là “Heroin,...có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” và “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g, o khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự. Nên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm g, o khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với ma túy và các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an xã hội và sự bất bình trong dư luận nhân dân tại địa phương; là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo biết rất rõ tác hại của ma túy cũng như hậu quả và hệ lụy hết sức nặng nề của việc sử dụng chất ma túy để lại đối với trí lực, thể lực của con người cũng như kinh tế của chính gia đình, bản thân người nghiện và của xã hội. Nhưng do có lối sống buông thả và để thỏa mãn cho ham muốn cá nhân, bị cáo đã bất chấp các quy định pháp luật; bản thân bị cáo đã bị kết án tội phạm cùng loại nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, cải tạo trở thành người tốt mà tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo là người khó cải tạo và coi thường pháp luật. Vì vậy, cần xét xử nghiêm, dành cho bị cáo một hình phạt thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích. Tuy nhiên, lần phạm tội này được xác định yếu tố tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Do đó, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 18/11/2013 bị Công an huyện K, tỉnh Hưng Yên xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và ngày 24/01/2014, bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hưng Yên xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

[5] Về quyết định hình phạt: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, cần tiếp tục cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, với mức án như quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, không có công ăn việc làm ổ định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp:

- Toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định đựng trong 01 niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định số 660/PC09 ngày 17/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - CA tỉnh Hưng Yên là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1200 màu đen xám đã cũ, bên trong lắp 01 thẻ sim liên lạc và 01 xe đạp màu đen, trên thân xe có in chữ Play town không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

- Số tiền 2.600.000đ thu của bị cáo là tiền của chị Hoàng Thị Kh vợ bị cáo H không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho chị Kh.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Anh H phải chịu án phí theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Anh H (Tên gọi khác: Trần Văn H) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Anh H 07 (bẩy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2019.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại mẫu vật sau giám định đựng trong 01 niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định số 660/PC09 ngày 17/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên.

- Trả lại cho bị cáo Trần Anh H 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1200 màu đen xám đã cũ, bên trong lắp 01 thẻ sim liên lạc và 01 xe đạp màu đen, trên thân xe có in chữ Play town.

- Trả lại chị Hoàng Thị Kh, sinh năm 1981, trú tại: thôn Y, xã V, huyện K, tỉnh Hưng Yên số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng).

(Theo quyết định chuyển vật chứng số 05/QĐ-VKS-P1 ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Hưng Yên).

3. Về án phí: Bị cáo Trần Anh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2020/HS-ST

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về