TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 13/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Tòng Văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 10 tháng 02 năm 2003 tại huyện Mai S, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Bản Lẳm C, xã Mường B, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Tòng Văn H, sinh năm 1978 và bà Lò Thị Ch, sinh năm 1977; chưa có vợ con; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 11/11/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Mai S tỉnh Sơn La xử phạt 15 (mười lăm) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07 tháng 8 năm 2023 đến nay. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 22 giờ 00 phút ngày 07/8/2023, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 1, phường Chiềng S, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã phát hiện và bắt quả tang Tòng Văn T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói giấy bạc, bên trong chứa 07 (bảy) viên màu hồng đồng dạng (T tự giác giao nộp khai nhận là ma túy cất giữ để sử dụng cho bản thân).
Ngày 08 tháng 8 năm 2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh: 07 (bảy) viên nén màu hồng đồng dạng trong gói giấy bạc có khối lượng 0,70 gam; lấy 03 (ba) viên có khối lượng 0,30 gam gửi giám định chất ma túy ký hiệu T, còn lại 04 (bốn) có khối lượng 0,40 gam lưu kho ký hiệu V.
Kết luận giám định số 1885/KL-KTHS ngày 09/8/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu ký hiệu T gửi giám định là ma túy; Loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,30 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,70 gam; loại Methamphetamine. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Tòng Văn T khai nhận: Do bản thân có sử dụng ma túy, khoảng 21 giờ 10 phút, ngày 07/8/2023 T đi xe taxi đến khu vực trường Cao đẳng Sơn L thuộc tổ 1, phường Chiềng S, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy sử dụng. Đến nơi, T đã mua được của một người nam giới không biết tên tuổi địa chỉ được 01 gói ma túy với số tiền 500.000 đồng. Sau đó, T cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ.
Đối với nguồn gốc 0,70 gam Methamphetamine, T khai mua của một nam giới không quen biết tại khu vực trường Cao đẳng Sơn L thuộc tổ 1, phường Chiềng S, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.
Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số 518/CT-VKSTP ngày 17/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Tòng Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Tòng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Tòng Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Tòng Văn T từ 18 đến 24 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: p dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc; 0,40 gam Methamphetamine ký hiệu V.
Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Tòng Văn T nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, qua xét hỏi bị cáo Tòng Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Ngày 07/8/2023, Tòng Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,70 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực trường Cao đẳng Sơn L thuộc tổ 1, phường Chiềng S, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ: Lời khai nhận tội của bị cáo; Biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng thu giữ là 0,70 gam Methamphetamine; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định; Kết luận giám định; Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với Kết luận điều tra.
Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tòng Văn T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố và Tòa án nhân dân thành phố Sơn La xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy và hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Xét cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo, răn đe phòng ngừa chung.
[4] Xét tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ông nội bị cáo được Nhà nước tặng huy chương kháng chiến hạng nhất đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Tòng Văn T: Bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ, ngoài lời khai của bị cáo, không còn nguồn tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để tiếp tục điều tra, xác minh mở rộng vụ án. Do đó, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma tuý bị thu giữ.
[7] Vật chứng vụ án:
Đối với 0,40 gam Methamphetamine ký hiệu V còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, vận chuyển, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 mảnh giấy bạc; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở là vật bị cáo dùng để cất giấu ma túy, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.
[8] Về án phí: Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Tuyên bố bị cáo Tòng Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Tòng Văn T 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
Tịch thu tiêu hủy: 0,40 gam Methamphetamine ký hiệu V; 01 mảnh giấy bạc; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở.
(Số lượng, khối lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng, tài sản theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/10/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Tòng Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Tòng Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13/11/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST
Số hiệu: | 08/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về