TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 16/11/2021VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2021/TLST-HS ngày 18/10/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST- HS ngày 01/11/2020 đối với bị cáo:
Lý Xuân T (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 28/02/1987, tại Nho Quan, Ninh Bình; Nơi ĐKHTT: Đội 4, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Bình; chỗ ở hiện nay: Tổ 02, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (Học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Lý Xuân Y, sinh năm: 1965 và bà Nguyễn Thị Q, sinh năm: 1968; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H và có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/06/2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ 30 phút ngày 11/6/2021, tổ công tác Công an phường Chiềng An, thành phố Sơn La phối hợp với Công an phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 6, phường Chiềng Lề, thành phổ Sơn La phát hiện, bắt quả tang Lý Xuân T đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Quá trình bắt giữ cơ quan công an thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng hình tròn đồng dạng (Lý Xuân T tự giác lấy từ túi quần phía trước hên trái đang mặc ra giao nộp và khai nhận là hồng phiến, cất giữ đế sử dụng).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa Lý Xuân T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, khoảng 08 giờ ngày 11/6/2021, Lý Xuân T đón xe ôm đi từ nhà tại Tổ 02, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đến Trung tâm bệnh tật tỉnh Sơn La tại thuộc bản Cọ, phường Chiềng An, thành phố Sơn La để uống thuốc cai nghiện Methadone. Sau khi uống thuốc Methadone xong, T đi bộ đến khu vực tổ 6, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La để tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây, T gặp và hỏi mua được của một người đàn ông (T không biết họ tên, địa chỉ ở đâu) 02 viên hồng phiến với số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, T cất giấu ma túy vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi bộ ra đường chính để để bắt xe ôm đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị Cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng.
Ngày 11/6/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh: 02 viên nén màu hồng hình tròn đồng dạng có tổng khối lượng: 0,20 gam; lấy toàn bộ 02 viên = 0,20 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, ký hiệu T.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La ra Quyết định trưng cầu giám định số 147/QĐ-ĐCSKT-MT đối với số ma túy thu giữ của Lý Xuân T. Kết luận giám định số 1112 ngày 14/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: "Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20 gam. Tổng khối lượng ma túv thu giữ là 0,20 gam; Loại Methamphetamine". Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,10 gam. (BL: 14-15) Tại phiên tòa bị cáo trình bày ý kiến giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Tại bản Cáo trạng số 727/CT- VKSTP ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Lý Xuân T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lý Xuân T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Lý Xuân T từ 14 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 11/6/2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
- Về vật chứng của vụ án đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, tịch thu tiêu hủy:
+ 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 vỏ túi nilon màu trắng có kích thước 5 x 8cm (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 039199 của Công an thành phố Sơn La).
+ 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định + Chất bột mầu hồng thuộc mẫu gửi giám định có ký hiệu T không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,10 gam”, (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 051989 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La).
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lý Xuân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Tại phiên tòa, bị cáo Lý Xuân T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự: Ngày 11/6/2021, Lý Xuân T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,20 gam Methamphetamine trong người với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tổ 6, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:
- Lời khai nhận tội của bị cáo;
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 40 phút ngày 11/6 2021 tại khu vực tổ 6, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Lý Xuân T cùng vật chứng thu giữ 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng hình tròn đồng dạng có tổng khối lượng 0,20 gam Methamphetamine;
- Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 1112 ngày 14/6/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Tạ Ngọc Sơn, sinh năm 1964, ĐKHKTT tại: Tổ 1, phường Chiềng An, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lý Xuân T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Lý Xuân T phạm tội với tổng khối lượng 0,20 gam Methamphetamine đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.
Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Có đủ năng lực hành vi hình sự.
[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, bản thân không có công việc và thu nhập ổn định và không có tài sản gì có giá trị, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về nguồn gốc 0,20 gam Methamphetamine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người nam giới nhưng không biết họ tên, tuổi và địa chỉ ở đâu vào ngày 11/6/2021, tại khu vực tổ 6, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.
[6] Về vật chứng của vụ án gồm có:
- 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 vỏ túi nilon màu trắng có kích thước 5 x 8cm (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 039199 của Công an thành phố Sơn La).
- 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định + Chất bột mầu hồng thuộc mẫu gửi giám định có ký hiệu T không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,10 gam”, (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 051989 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La).
Xét thấy là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng, do đó cần tuyên tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Lý Xuân T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Lý Xuân T 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 11/6/2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu, tiêu hủy:
- 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 vỏ túi nilon màu trắng có kích thước 5 x 8cm (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 039199 của Công an thành phố Sơn La).
- 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định + Chất bột mầu hồng thuộc mẫu gửi giám định có ký hiệu T không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,10 gam”, (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 051989 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/10/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lý Xuân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/11/2021).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2021/HS-ST
Số hiệu: | 07/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về