Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 378/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH

BẢN ÁN Số 378/2021/HSST NGÀY 26/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 08 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 392/2021/HSST 30/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 395/2020/QDXXST - HS ngày 13/8/2021 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Đào Anh Đ; Sinh ngày 11 tháng 8 năm 1978.

Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tổ 4, phường Tân Lập, thành phố TH, tỉnh TH.

Quốc tịch:Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo; Không; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không;Trình độ học vấn: 2/12; Con ông: Đào Xuân Dũng, sinh năm 1950;Con bà: Lê Thị Hồng Chắt, đã chết; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất;Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại Quyết định số 25/QĐ-UB ngày 15/6/2008 của Uỷ ban nhân dân phường Tân Lập về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã đối với Đào Anh Đ trong thời hạn 3 tháng.

+ Tại Quyết định số 138/QĐ-UB ngày 14/3/2010 về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã đối với Đào Anh Đ trong thời hạn 03 tháng.

+ Tại Quyết định số 6739/QĐ-CT ngày 21/9/2008 về việc đưa người nghiện vào chữa bệnh tại Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động, xã hội thành phố TH đối với Đào Anh Đ trong thời hạn 20 tháng.

+ Tại Bản án số 282/HSST ngày 12/11/1997 của Toà án nhân dân thành phố TH, xử phạt Đào Anh Đ 30 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong khoản án phí và tiền phạt ngày 28/9/2012.

+ Tại Bản án số 203/2010/HSST ngày 04/8/2010 của Toà án nhân dân thành phố TH, xử phạt Đào Anh Đ 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/5/2011. Chấp hành xong khoản án phí ngày 07/9/2011.

+ Tại Bản án số 401/2014/HSST ngày 27/6/2014 của Toà án nhân dân thành phố TH xử phạt Đào Anh Đ 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong khoản án phí ngày 19/11/2014.

+ Tại Bản án số 425/2014/HSST ngày 29/7/2014 của Toà án nhân dân thành phố TH, xử phạt Đào Anh Đ 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với bản án 401/2014/HSST buộc Đ phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 42 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/5/2017. Chấp hành xong khoản án phí ngày 19/11/2014.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH (Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2021 đến nay).

* Ngƣời chứng kiến :

1. Nguyễn Văn H, sinh năm 1971(Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 06, phường Tân Thịnh, TP. TH, tỉnh TH.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 09/5/2021, tổ công tác của Công an phường Tân Thịnh, thành phố TH làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 12 của phường thì phát hiện 01 nam thanh niên đang ngồi trên xe máy điện không gắn biển kiểm soát có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên trên khai tên là Đào Anh Đ. Kiểm tra người Đ, tổ công tác phát hiện tại túi quần phía trước bên phải Đ đang mặc có 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (theo Đ khai là Heroine). Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Ngoài ra còn thu giữ của Đ 01 xe máy điện.

Tiến hành cân xác định: Chất bột màu trắng thu giữ của Đ có khối lượng 0,145 gam (lấy 0,096 niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định, còn lại 0,049 gam niêm phong ký hiệu A2 để lưu kho).

Tại Kết luận giám định số 848/KL-KTHS ngày 18/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Đào Anh Đ là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,145 gam .

Tại Cơ quan điều tra Đào Anh Đ khai nhận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 09/5/2021, Đ điều khiển xe máy điện từ nhà đến bờ hồ Gia Sàng mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, Đ gặp và mua của 01 người phụ nữ không rõ lai lịch 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng. Mua xong, Đ cất giấu gói ma túy vào túi quần bên phải phía trước rồi đi về tìm chỗ sử dụng. Khi đi đến tổ 12, phường Tân Thịnh, thành phố TH thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang như trên.

Lời khai nhận của Đào Anh Đ phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án:

- 02 bì niêm phong ký hiệu A1, A2. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH chờ xử lý.

- 01 xe máy điện màu đỏ đen không có biển kiểm sát. Đăng ký xe mang tên Lê Quang Nam, sinh năm 1999, HKTT: xóm Tân Thịnh, thành phố TH. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tách ra để xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 384 /CT-VKSTPTN, ngày 19/7/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, tỉnh TH đã truy tố Đào Anh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự .

Kết thúc phần xét hỏi, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TH giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đào Anh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS; Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:Tịch thu tiêu hủy : 02 bì niêm phong ký hiệu A1, A2 bên trong chứa ma tuý.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 12, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] . Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Đào Anh Đ tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do nghiện ma túy, Hồi 16 giờ 20 phút ngày 09/5/2021, tại khu vực tổ 12, phường Tân Thịnh, thành phố TH, Đào Anh Đ đang có hành vi tàng trữ 0,145 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Tân Thịnh, thành phố TH phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của nêu trên của Đào Anh Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tội phạm và hình phạt của Đào Anh Đ được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Nội dung điều luật quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c, Heroine.......có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

4] . Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma túy là mặt hàng cấm do Nhà nước độc quyền quản lý, song do nghiện ma túy, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết nhằm răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

- Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo có nhân thân rất xấu, đã từng bị Toà án xét xử về các tội do lỗi cố ý, tuy được xoá án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, do nghiện ma túy mà tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi về hành vi của mình nên hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện lượng khoan hồng của Nhà nước đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp và cần được chấp nhận.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội lẽ ra cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước, nhưng qua xác minh bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì giá trị, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Cần Tịch thu tiêu hủy 02 bì niêm phong ký hiệu A1, A2 bên trong chứa ma tuý.

Về chiếc xe máy điện màu đỏ đen không có biển kiểm sát. Đăng ký xe mang tên Lê Quang Nam, sinh năm 1999, HKTT: xóm Tân Thịnh, thành phố TH. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tách ra để xử lý sau, nên không xem xét.

[8]. Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ theo Đào Anh Đ khai mua của 01 người phụ nữ không rõ lai lịch địa chỉ tại khu vực bờ hồ Gia Sàng. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đào Anh Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" Căn cứ vào: Điểm c, khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Đào Anh Đ : 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/5/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Áp dụng Điều 329 BLTTHS Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: + 01(một) bì niêm phong ký hiệu A1: (Bì niêm phong chứa 0,051 gam chất ma túy – Mặt sau bì có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH);

+ 01(một) bì niêm phong ký hiệu A2: (Bì niêm phong chứa 0,049 gam chất ma túy – Mặt sau bì có 03 dấu tròn của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố TH).

(Vật chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 509 ngày 26/7/2021)

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 378/2021/HSST

Số hiệu:378/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về