Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 05/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 23/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 23/01/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2023/TLST-HS ngày 15/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2023/QĐXXST-HS ngày 11/01/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N, sinh năm 1987; tại: xã L, huyện S, tỉnh B; nơi cư trú: Xóm 14B, xã L, huyện S, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Trương Thị K (đã chết); vợ: Lê Thị H, sinh năm 1988; có 02 con: con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/10/2023 đến ngày 13/10/2023; sau đó chuyển tạm giam từ ngày 13/10/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện S (có mặt);

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn H - Sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn Yên Khoái, xã Nga Yên, huyện S, tỉnh T (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 05 phút, ngày 10/10/2023, tại trục đường từ thị trấn S đi xã Nga Văn, khu vực phía trước Trung tâm y tế huyện S thuộc địa phận tiểu khu 3, thị trấn S, huyện S, tỉnh T, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an huyện S phối hợp với Công an thị trấn S tuần tra phát hiện Nguyễn Văn N có biểu hiện nghi vấn về ma tuý nên tiến hành kiểm tra. Thấy vậy, N thả từ trên tay phải xuống dưới đất 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất màu trắng dạng cục vụn. Kiểm tra người và phương tiện của Nguyễn Văn N phát hiện và thu giữ: 01 gói giấy bên trong chứa chất màu trắng dạng cục vụn bên trong ví da và 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng tại vị trí túi áo trong bên trái; 01 túi nilon chứa 02 gói giấy, bên trong 02 gói giấy chứa chất màu trắng dạng cục vụn tại vị trí túi quần bên phải. Nguyễn Văn N khai nhận toàn bộ các chất màu trắng dạng cục vụn nêu trên đều là ma tuý, loại Heroine của mình. Số ma túy này N đã mua trước đó để sử dụng cho bản thân.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn N khai nhận: Bản thân là người nghiện và thường xuyên sử dụng ma túy. Sáng ngày 10/10/2023, N đi từ nhà đến khu vực chùa Đồng Đắc ở xã Đồng Hướng, huyện S, tỉnh B gặp người đàn ông tên T để nhờ mua ma tuý (T cũng là người nghiện ma tuý và N đã từng nhờ T mua ma tuý trước đó vài lần). Tuy nhiên, N chỉ biết người đàn ông này tên là T, không biết cụ thể địa chỉ, thông tin liên lạc của người đàn ông này. N đã đưa cho T số tiền 700.000đ và nhờ mua ma túy hộ. T đồng ý, cầm số tiền trên đi mua ma tuý. Khoảng 10 phút sau, T quay lại đưa cho N 03 gói ma túy. Nhận được ma túy, N đi đến nghĩa trang xã Kim Chính, huyện S, tỉnh B, lấy 01 trong 03 gói ma túy đã mua trước đó ra sử dụng một phần. Phần còn lại N chia ra thành 02 gói nhỏ rồi cất giấu, mang theo trong người. Sau đó, N điều khiển xe mô tô đến các vùng lân cận và huyện S, T (mục đích để đi tìm, bắt rắn). Khoảng 11 giờ 05 phút cùng ngày, do có nhu cầu tiếp tục sử dụng ma túy, N lấy trong người ra 01 (một) gói ma túy cầm trên tay để tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến khu vực phía trước Trung tâm y tế huyện S thuộc địa phận tiểu khu 3, thị trấn S, huyện S, tỉnh T, nhìn thấy Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an huyện S và Công an thị trấn S đi tuần tra, N đã thả gói ma tuý đang cầm trên tay phải xuống dưới đất. Tuy nhiên vẫn bị Tổ công tác phát hiện, bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật như đã nêu ở trên.

* Ngày 10/10/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện S quyết định trưng cầu giám định số 64/QĐ-ĐCSKT-MT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T giám định:

- Chất màu trắng dạng cục bên trong phong bì niêm phong ký hiệu M1, gửi giám định có phải ma túy không? Nếu là ma túy thì là loại ma túy gì? có khối lượng là bao nhiêu? - Chất màu trắng dạng cục bên trong phong bì niêm phong ký hiệu M2, gửi giám định có phải ma túy không? Nếu là ma túy thì là loại ma túy gì? có khối lượng là bao nhiêu?

- Chất màu trắng dạng cục bên trong phong bì niêm phong ký hiệu M3, gửi giám định có phải ma túy không? Nếu là ma túy thì là loại ma túy gì? có khối lượng là bao nhiêu? Tại kết luận giám định số 3700/KL-KTHS, ngày 12/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận:

- Chất màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,092g (không phẩy không chín hai gam), loại: Heroine.

- Chất màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,077g (không phẩy không bảy bảy gam), loại: Heroine.

- Chất màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M3 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,310g (không phẩy ba một không gam), loại: Heroine.

Tổng khối lượng ma túy N tàng trữ là 0,479g (không phẩy bốn bảy chín gam), loại: Heroine.

Đối với người mua hộ ma túy cho N, theo lời khai báo của N tại Cơ quan điều tra chỉ biết người này tên T, khoảng 40 tuổi, gầy, đen, cao 1m60, về địa chỉ N không có thông tin gì. Cơ quan CSĐT Công an huyện S đã tiến hành ra soát, xác minh tại xã Đồng Hướng, huyện S, tỉnh B nhưng không có kết quả, nên không có cơ sở để truy tìm, xử lý.

Điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, màu xanh đen, gắn sim số 0767.790.xxx và 0931.681.xxx, IMEI1: 861191060269888, IMEI2:861191060269896, đã qua sử dụng và xe mô tô nhãn hiệu TAURUS, màu đen, số khung: RLCS16S30CY013137, số máy: SB- 041793, BKS: 61C-xxxxx, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo và gia đình, không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 10/11/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện S đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Oánh (anh trai của bị cáo N).

Vật chứng của vụ án: Toàn bộ bao gói mở niêm phong của 03 phong bì, gồm: 0,078g (không phẩy không bảy tám gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M1; 0,062g (không phẩy không sáu hai gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M2; 0,270g (không phẩy hai bảy không gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M3. Tất cả được đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Trần Thị Thúy H, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T (số ma tuý còn lại sau giám định); 01 (một) bơm kim tiêm đã qua sử dụng đang được bảo quản, chờ xử lý theo quy định.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Văn N theo cáo trạng số 02/CT-VKSNS ngày 3 13/12/2023 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 15 đến 18 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (10/10/2023).

* Hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của BLHS đối với bị cáo.

* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ bao gói mở niêm phong của 03 phong bì, gồm:

0,078g (không phẩy không bảy tám gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M1; 0,062g (không phẩy không sáu hai gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M2; 0,270g (không phẩy hai bảy không gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M3. Tất cả được đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Trần Thị Thúy H, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T (số ma tuý còn lại sau giám định); 01 (một) bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

Bị cáo Nguyễn Văn N không có ý kiến tranh luận với VKS, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: Ngày 10/10/2023, bị cáo đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,479g (không phẩy bốn bảy chín gam) ma túy, loại heroine để sử dụng thì bị Công an huyện S phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và tang vật đã thu giữ cũng như kết luận giám định xác định đối tượng gửi giám định là ma túy, loại Heroine. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Bị cáo nhận biết ma túy là hiểm họa của loài người, làm tiêu tốn tiền của gia đình và bản thân, phá hoại sức khỏe, ảnh hưởng đến phát triển nòi giống, còn là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và là nguyên nhân phát sinh các hành vi phạm pháp khác.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[5] Từ những căn cứ nêu trên xét thấy: Cần áp dụng Điều 38 của BLHS có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật.

[6] Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy được hoàn lại sau giám định theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện S và cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S lập ngày 16/12/2023.

[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (10/10/2023).

* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ bao gói mở niêm phong của 03 phong bì, gồm:

0,078g (không phẩy không bảy tám gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M1; 0,062g (không phẩy không sáu hai gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M2; 0,270g (không phẩy hai bảy không gam) chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì ký hiệu M3. Tất cả được đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Trần Thị Thúy H, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh 5 T (số ma tuý còn lại sau giám định); 01 (một) bơm kim tiêm đã qua sử dụng (Theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 16/12/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S).

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 05/2024/HS-ST

Số hiệu:05/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về