Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn V, sinh năm 1985; nơi sinh và đăng ký HKTT: Thôn N, xã N1, huyện P, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tich: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 31/12/2019 được thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo hiện tại ngoại “có mặt”.

- Người chứng kiến: Ông Đặng Hữu T, sinh năm 1965;

Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1985;

Đều trú tại: Thôn T2, xã N1, huyện P, tỉnh Hưng Yên “đều vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 22/12/2019, tại khu vực cổng chào thôn T2, xã N1, huyện P, tỉnh Hưng Yên tổ tuần tra Công an huyện P phối hợp với Công an xã N1, huyện P kiểm tra phát hiện Nguyễn Văn V đang điều khiển chiếc xe mô tô biển kiểm soát 89F4- 7X màu xanh có biểu hiện nghi vấn, tổ tuần tra tiến hành dừng xe mô tô và kiểm tra trên người Nguyễn Văn V phát hiện trong túi áo khoác màu đỏ V đang mặc có 01 gói giấy bạc kích thước (01 x 01)cm, bên trong gói giấy bạc có chất dạng cục, bột màu trắng đươc niêm phong kí hiệu M1, V khai nhận đó là gói ma túy Heroine vừa đi mua về để sử dụng cho bản thân. Công an huyện P lập biên bản bắt V phạm tội quả tang và thu giữ 01 bật lửa ga bên trên có dòng chữ “ 555 VIP HOA VIET”, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã cũ, 01 xe mô tô biển kiểm soát 89F4- 7X màu xanh, tem dán loại Wave, xe mô tô màu đen có dòng chữ “Loncin”.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn V tại thôn N, xã N1, huyện P, tỉnh Hưng Yên không phát hiện thu giữ đồ vật gì có liên quan đến vụ án.

Tại Bản kết luận giám định số: 45/MT- PC09 ngày 25/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ký hiệu M1 thu của Nguyễn Văn V, có khối lượng là:

0,149 gam, là ma túy loại: Heroine. Hoàn lại 0,123 gam Heroine trong niêm phong ghi M1 thu của Nguyễn Văn V.

Kết quả điều tra xác định: Sáng ngày 22/12/2019 Nguyễn Văn V xin được 200.000 đồng của anh Lưu Đình N2 ở thôn T2, xã N1, huyện P nói để sửa xe máy, nhưng V lại một mình điều khiển xe mô tô biển khiểm soát 89F4-7X đến khu vực cầu T3, thuộc xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương. Tại đây, V dựng xe mô tô và đi bộ xuống dưới gầm cầu thấy 01 người đàn ông ngồi trên thuyền ở dưới sông. V hỏi mua ma túy với số tiền 200.000 đồng. Sau đó người đàn ông này đưa một cái sào đầu gắn một chai nhựa đã bị cắt đôi, V bỏ 200.000 đồng vào chai nhựa, người đàn ông thu sào lại. Một lát sau người đàn ông đưa đầu sào có gắn phần chai nhựa về phía V, trong chai nhựa có 01 gói giấy bạc. V cầm gói giấy bạc trên bên trong có chất ma túy Heroine cho vào túi áo khoác V đang mặc rồi đi về. Khi V về đến thôn T2, xã N1, huyện P thì bị Công an huyện P phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng, đồng thời quản lý của V: 01 bật lửa ga bên trên có dòng chữ “555 VIP HOA VIET”, 01 xe mô tô biển kiểm soát 89F4- 7X màu xanh, tem xe dán loại Wave, xe mô tô màu đen có dòng chữ “Loncin”.

Việc V khai mua ma túy của người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ nên cơ quan điều tra Công an huyện Phù Cừ đã tiến hành điều tra xác minh nhưng không xác định được.

Tại Cáo trạng số: 02/CT-VKSPC ngày 02 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Hưng Yên truy tố Nguyễn Văn V về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Hưng Yên luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố hành vi phạm tội của bị cáo V theo nội dung bản cáo trạng; đồng thời đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, được trừ 09 ngày bị tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền; tịch thu ma túy, bật lửa cho tiêu hủy; trả lại cho bị cáo V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen và 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 89F4- 7X và bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn V nhận tội, khai diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện phù hợp hành vi phạm tội của bị cáo đã bị Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố trong bản cáo trạng. Nay bị cáo đã nhận thức rõ sai phạm, xin giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất để cải tại tốt, sớm được trở về với gia đình, xã hội, phấn đấu thành người tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo V không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2]. Lời nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn V tại phiên tòa phù hợp khách quan với lời khai của bị cáo trước cơ quan điều tra; đồng thời phù hợp biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang; lời khai của người chứng kiến khi V bị bắt quả tang là ông Đặng Hữu T và anh Nguyễn Văn T1; phù hợp các vật chứng thu giữ của bị cáo khi bị bắt quả tang và kết luận giám định. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 22/12/2019, tại khu vực cổng chào thôn Tân 2, xã N1, huyện P, tỉnh Hưng Yên bị cáo Nguyễn Văn V đang có hành vi cất giấu trái phép 0,149 gam chất ma túy loại Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an huyện P phát hiện bắt quả tang. Bị cáo Nguyễn Văn V là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo Vương thực hiện như phân tích đã có đủ dấu hiệu cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Hưng Yên truy tố Nguyễn Văn V về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là chính xác, có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo V là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với chất ma túy và các chất gây nghiện. Bản thân bị cáo V là người nghiện chất ma túy Heroine, biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe, trí lực của con người và gây thiệt hại kinh tế gia đình, nhưng bị cáo không có quyết tâm cai nghiện để từ bỏ ma túy mà còn đi tìm mua ma túy cất giấu để sử dụng thỏa mãn ham muốn cá nhân dẫn đến phạm tội, đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt phù hợp và cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian cần thiết để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và làm bài học răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét: Bị cáo Nguyễn Văn V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

Xét bị cáo V là người nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng phạt tiền đối với bị cáo vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[5]. Biện pháp tư pháp:

- 01 phong bì niêm phong bên trong có mẫu vật ma túy do cơ quan giám định hoàn lại và 01 bật lửa ga màu xanh có dòng chữ “555 VIP HOA VIET” không có giá trị, nên tịch thu cho tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen cũ và 01 xe mô tô biển kiểm soát 89F4- 7X màu xanh, tem xe loại Wave là tài sản hợp pháp và đồ dùng, phương tiên đi lại hàng ngày của bị cáo, kết quả điều tra không có căn cứ chứng minh bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên giao trả lại cho bị cáo V.

[6]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn V bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn V phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, được trừ 09 (chín) ngày đã bị tạm giữ; bị cáo V còn phải chấp hành hình phạt là 01 (một) năm 03 (ba) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Không phạt bổ sung bằng phạt tiền đối với bị cáo V.

Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu toàn bộ mẫu vật ma túy do cơ quan giám định hoàn lại trong niêm phong và 01 bật lửa ga màu xanh có dòng chữ “555 VIP HOA VIET” cho tiêu hủy.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn V 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng và 01 xe mô tô biển kiểm soát 89F4- 7X màu xanh, tem xe loại Wave, máy xe màu đen có dòng chữ “Loncin” đã cũ.

(Chi tiết về số lượng, chất lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng nêu trên được mô tả cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/3/2020 giữa Công an huyện P và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bản án sơ thẩm xét xử công khai có mặt bị cáo, đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2020/HS-ST

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cừ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về