Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 11/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11/01/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 117/2021/TLST-HS, ngày 25/11/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2021/QĐXXST-HS ngày 27/12/2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn H, sinh năm 1983 tại: Thành phố C, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Khu dân cư Đ, phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Nguyễn Thị N; mẹ nuôi: Đỗ Thị Đ; có vợ là: Bàn Thị T; có 02 con: Lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 29/HSST ngày 27/9/2004, Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xử phạt H 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án về tội “Trộm cắp tài sản”. H đã chấp hành xong hình phạt chính và nộp án phí ngày 05/01/2006; bị tạm giam từ ngày 27/9/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Văn N, sinh năm 1993 tại: Thành phố C, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Khu dân cư B, phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V và bà Vũ Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự (Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 169/QĐ-XPĐG ngày 20/6/2013, Trưởng Công an thành phố Hải Dương đã xử phạt N về hành vi xâm hại sức khỏe người khác, hình thức: Phạt tiền (1.000.000đồng), N chưa chấp hành xong quyết định này; nhân thân: Tại bản án hình sự số 36/2018/HS-ST ngày 24/7/2018, Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đã xử phạt Trần Văn N 14 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, N chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/6/2019, nộp án phí ngày 08/10/2018; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/9/2021 đến ngày 27/9/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Ông Lê Quang Đ; sinh năm 1967; trú tại: Khu dân cư B, phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương - Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 25/9/2021 Trần Văn N đang ở nhà thì Nguyễn Văn H đến chơi. H rủ N đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng, N đồng ý. N không còn tiền nên H ứng trước và đưa cho N số tiền 550.000 đồng để N đi mua ma túy. N đi bộ ra khu vực ngã tư thuộc khu dân cư V, phường V, thành phố C gặp và mua 500.000đồng tiền ma túy của một người đàn ông không rõ nhân thân, lý lịch, được 01 túi ma túy, N còn đưa thêm cho người này 50.000 đồng để mua xăng. Sau khi mua được ma túy, N cầm túi ma túy ở lòng bàn tay trái rồi đi bộ về. Khoảng 23 giờ cùng ngày khi đi đến đoạn đầu ngõ rẽ vào nhà N thuộc khu dân cư B, phường V, thành phố C thì N nhìn thấy lực lượng Công an thành phố Chí Linh, N sợ hãi đã vứt túi ma túy cầm trên tay xuống mặt đất ngay vị trí dưới chân N đứng. Lực lượng Công an Chí Linh đã phát hiện lập biên bản quả tang thu giữ: tại vị trí mặt đất ngay dưới chân N đang đứng 01 túi nilon màu trắng, viền khóa màu đỏ, kích thước (1.8x02)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng N khai đó là ma túy, N mua về để N và H cùng sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 561/KLGĐ-PC09 ngày 28/9/2021, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì, gửi đến giám định khối lượng là: 0.289 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Hoàn lại sau giám định là 0.242 gam Methamphetamine; 01 vỏ túi nilon màu trắng, viền khóa màu đỏ và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định.

Tại Cáo trạng số 110/CT-VKS-CL ngày 23/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương truy tố các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Trần Văn N từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 25/9/2021; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giam 27/9/2021. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất về việc xử lý vật chứng và án phí của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra- Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên thu thập, những người tham gia tố tụng cung cấp; hành vi, quyết định tố tụng do Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có khiếu nại hoặc tố cáo. Do đó xác định những chứng cứ, tài liệu đã thu thập; các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai, bản cung của các bị cáo trong quá trình điều tra vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án đã thu giữ được, lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 25/9/2021 Trần Văn N và Nguyễn Văn H thỏa thuận H ứng tiền trước để N đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. Khoảng 23 giờ 00 phút cùng ngày sau khi mua được ma túy N đi về đến đoạn đầu đường thuộc khu dân cư B, phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương thì bị lực lượng Công an thành phố Chí Linh bắt quả tang, thu giữ của N 0.289 gam ma túy, loại Methamphetamine. Hành vi nêu trên của Trần Văn N và Nguyễn Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, bởi lẽ:

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma tuý - Một khách thể mà Bộ luật Hình sự đã quy định và bảo vệ. Với mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng trái phép chất ma tuý của bản thân, các bị cáo đã bất chấp pháp luật của Nhà nước, lén lút cất giữ trái phép chất ma túy để sử dụng làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây dư luận xấu trong nhân dân. Nhà nước ta đã có chế độ quản lý ngặt nghèo đối với ma tuý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng… trái phép chất ma túy. Nhà nước đã tuyên truyền rộng rãi dưới nhiều hình thức về hiểm hoạ của ma tuý và pháp luật của Nhà nước đối với ma tuý. Bản thân các bị cáo đã hiểu rõ tác hại của ma tuý đối với sức khoẻ, tính mạng của con người. Nhưng do ham chơi, không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, các bị cáo đã sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh đã truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Với hành vi của mình, các bị cáo phải chịu một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã gây ra, để hình phạt đó không chỉ là sự trừng trị của pháp luật đối với người phạm tội mà còn là bài học để dăn đe, giáo dục chung trong cộng đồng.

[4] Vụ án có nhiều người tham gia, tuy chỉ là đồng phạm giản đơn, song có người chủ mưu, người thực hành tích cực nên đã làm tăng thêm ý chí, sự quyết tâm của các bị cáo trong vụ án. H là người khởi xướng và ứng tiền cho N đi mua ma túy nên là người giữ vai trò thứ nhất trong vụ án. Bị cáo N là người thực hành tích cực đã trực tiếp đi mua ma túy và cất giữ trái phép ma túy.

[5] Xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, thấy rằng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án nhưng vẫn không cải sửa lỗi lầm lại tiếp tục phạm tội. Ngoài ra, bị cáo N còn có 01 tiền sự.

[6] Xét cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ hành vi, hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo thấy không cần phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ của các bị cáo 0.289 gam Methamphetamine. Sau khi giám định, Cơ quan giám định hoàn lại 0.242 gam Methamphetamine, đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy. Đối với 01 vỏ túi nilon màu trắng, viền khóa màu đỏ và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

[9] Đối với người đàn ông bán ma túy cho N, quá trình điều tra không xác định được cụ thể nhân thân, lý lịch của người thanh niên này. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[10] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 17 (Mười bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 27/9/2021.

Xử phạt bị cáo Trần Văn N 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 25/9/2021.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 0.242 gam Methamphetamine được đựng trong phong bì niêm phong, 01vỏ túi nilon màu trắng viền khóa màu đỏ và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/11/2021 của Công an thành phố Chí Linh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Chí Linh).

Về án phí: Buộc các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn H mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về