Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (Heroine) số 13/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 29/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29/12/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vùi Thị U; tên gọi khác: không; sinh năm 1962 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Giáy; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Con ông Vùi Văn Ph (đã chết) và bà Lù Thị Ng (đã chết); Có chồng là Vàng Seo H, sinh năm 1966 và có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1989; Bị cáo có 03 anh, em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Tiền sự: Không; Tiền án: không; Về nhân thân: Bị cáo đã 01 lần bị Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu (cũ) nay là Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy xử phạt bị cáo 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng theo Bản án số 11/HSST ngày 29/12/2000.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 23/8/2021 đến ngày 29/8/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 05 giờ ngày 23/8/2021, tại cổng nhà Dì Thị M, sinh năm 1983 tại Bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu, Vùi Thị U đã mua được của một người đàn ông dân tộc Mông (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy bên ngoài được gói bằng một mảnh nilon màu hồng với giá 300.000 đồng. Do U được Dì Thị M nhờ trông nhà hộ nên sau khi mua được ma túy U cất giấu vào dưới gầm giường trong phòng ngủ nhà của M rồi khóa cửa ngoài đi về nhà của U (nhà U cạnh nhà M). Đến buổi trưa cùng ngày, U sang nhà M, lấy gói ma túy trên, mở ra kiểm tra thì thấy bên trong có chứa ma túy, U lấy 01 cục ma túy ra cấu một ít cho vịt ăn, số ma túy còn lại U gói lại bằng mảnh nilon màu hồng ban đầu. Cục ma túy mà U đã cấu một ít cho vịt ăn, U để nguyên không gói lại. Sau đó, U để toàn bộ số ma túy ở dưới gầm giường trong phòng ngủ trong nhà của nhà M. Khoảng 11 giờ ngày 23/8/2021, U quay lại nhà của Dì Thị M đến chỗ cất ma túy để lấy một ít cho lợn ăn. Khi U vừa cầm số ma túy trên lên thì tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế ma túy Công an thành phố L đến kiểm tra, do sợ bị phát hiện nên U đã giấu ma túy vào trong cạp quần bên phải đang mặc trên người của U, sau đó U đã tự giác lấy ra để giao nộp cho tổ công tác. Vùi Thị U khai nhận đây là ma túy, loại Heroin của U, cất giấu để chữa bệnh cho vật nuôi trong gia đình. Sau đó, tổ công tác tiến hành cho toàn bộ số ma túy vừa thu giữ của U vào 01 mảnh giấy màu trắng để gói lại và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Các vấn đề khác của vụ án:

Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán Heroine cho bị can Vùi Thị U vào ngày 23/8/2021. Do bị cáo không biết nhân thân, lai lịch của ông ta nên Cơ quan điều tra Công an thành phố L không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Kết luận giám định số 35/KLGĐ ngày 23/8/2021 của Người giám định tư pháp theo vụ việc (Bút lục số 57) kết luận: Chất bột màu trắng được gói bên ngoài bằng lớp nilon màu hồng và cục chất bột khô màu trắng thu giữ trong quá trình bắt quả tang Vùi Thị U ngày 23/8/2021 có khối lượng lần lượt là: Chất bột màu trắng có khối lượng là 0,36 gam. Cục chất bột khô màu trắng có khối lượng là 0,49 gam. Tổng khối lượng là 0,85 gam.

Kết luận giám định số 713 ngày 25/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu (Bút lục số 60) kết luận: 02 mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M1, M2) gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Cáo trạng số 57/CT-VKSTP ngày 29/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu đã truy tố Vùi Thị U về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vùi Thị U phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Về hình phạt chính: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vùi Thị U từ 01 năm đến 02 năm tù, trừ thời gian tạm giữ trước đó cho bị cáo, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án; Hình phạt bổ sung: đề nghị hội đồng xét xử xem xét miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự;

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu, tiêu hủy đối với 01 phong bì niêm phong là phong bì công văn của Công an thành phố L (Theo hồ sơ bên trong là 0,65 gam Heroine còn lại, 01 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong do Cơ quan điều tra dùng để gói và niêm phong trong quá trình bắt người phạm tội quả tang đối với Vùi Thị U ngày 23/8/2021 còn lại sau giám).

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Cáo trạng, kết luận nêu trên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, bị cáo đã nhiều tuổi rồi nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp để được sớm trở về với gia đình và xã hội làm công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Khoảng 11 giờ 00 phU ngày 23/8/2021, tại nhà của Dì Thị M, sinh năm 1983 ở Bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu, trong lúc Vùi Thị U đang tàng trữ trái phép 0,85 (không phẩy tám mươi lăm) gam Heroine ở trong cặp quần phía bên phải đang mặc trên người của U, mục đích để chữa bệnh cho vật nuôi trong gia đình thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L phát hiện bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Vùi Thị U là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, ý thức được điều đó nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Vùi Thị U có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

.................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L tại phiên tòa là có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về nhân thân: Bị cáo đã 01 lần bị Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu (cũ) nay là Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy xử phạt bị can 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng theo Bản án số 11/HSST ngày 29/12/2000. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo được hơn 18 năm, đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của Bản án, bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội mới nào trước lần phạm tội này. Tính đến lần phạm tội này bị cáo đã được xóa án tích.

Tại bản án số 11/HSST ngày 29/12/2000 của Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu (cũ) nay là Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xác định bị cáo Vùi Thị P, sinh năm 1964 (danh chỉ bản lập ngày 03/10/2000), bị cáo có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ bốn; đồng thời qua điều tra thu thập các giấy tờ tùy thân, bị cáo có các năm sinh khác nhau, tên gọi khác nhau như: Giấy chứng minh nhân dân cấp năm 1989 mang tên Vùi Thị U, sinh năm 1964, Giấy chứng minh nhân dân cấp năm 1998 mang tên Vùi Thị P, sinh năm 1962, Giấy chứng minh nhân dân cấp năm 2009 mang tên Vùi Thị U, sinh năm 1964, Giấy chứng minh nhân dân cấp năm 2017 mang tên Vùi Thị U, sinh năm 1962, căn cước công dân năm 2021 mang tên Vùi Thị U sinh năm 1962, Sổ hộ khẩu năm 2014 mang tên Vùi Thị U sinh năm 1962. Do đó ngày 12/11/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu ra Quyết định trưng cầu giám định số 131/QĐ-ĐCSKT-MT (bút lục 74), trưng cầu giám định các điểm chỉ đường vân trên các tài liệu nêu trên của bị cáo Vùi Thị U với các điểm chỉ đường vân của danh chỉ bản lập ngày 29/8/2021 có trong hồ sơ vụ án có phải điểm chỉ đường vân của cùng một người hay không. Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu số 852/GĐ-KTHS (bút lục 76) kết luận: Các điểm chỉ đường vân in trên danh chỉ bản, danh chỉ bản số 92 do Công an thành phố L lập ngày 29/8/2021 mang tên Vùi Thị U, sinh năm 1962, nơi cư trú Bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu (mẫu cần giám định) so với các điểm chỉ đường vân in trên các mẫu so sánh là điểm chỉ đường vân của cùng một người. Do vậy có đủ cơ sở xác định bị cáo Vùi Thị U, sinh năm 1962 và Vùi Thị P, sinh năm 1964 trong bán án số 11/HSST ngày 29/12/2000 của Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu (cũ) nay là Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu là một người.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử thấy trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo là người dân tộc thiểu số, không đi học nên nhận thức có phần hạn chế do đó cần có một mức hình phạt phù hợp nhằm răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội đồng thời nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn mặt khác bị cáo còn phải chấp hành án phạt tù nên Hội đồng xét xử cần quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 0,2 gam Heroine Cơ quan điều tra Công an thành phố L đã mang toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

Đối với 01 phong bì niêm phong là phong bì công văn của Công an thành phố L (Theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh nilon màu hồng, một mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình bắt người phạm tội quả tang đối với Vùi Thị U ngày 23/8/2021; khối lượng 0,65 gam Heroine còn lại sau khi trích mẫu vật đi giám định), xét thấy là công cụ phạm tội, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Vùi Thị U phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

[2] Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vùi Thị U 14 (Mười bốn) tháng tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ 06 (sáu) ngày, bị cáo còn phải chấp hành là 13 (mười ba) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

[3] Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy đối với 01 phong bì niêm phong là phong bì công văn của Công an thành phố L (Theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh nilon màu hồng, một mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình bắt người phạm tội quả tang đối với Vùi Thị U ngày 23/8/2021; khối lượng 0,65 gam Heroine còn lại sau khi trích mẫu vật đi giám định) (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 14 giờ 00 phU ngày 01/12/2021 giữa Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lai Châu).

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (Heroine) số 13/2021/HS-ST

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về