Bản án về tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng số 36/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 36/2024/HS-PT NGÀY 10/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, SỬ DỤNG TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 10 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2024/TLPT-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024. Do có kháng cáo của bị cáo Chau Vanh N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 190/2023/HS-ST ngày 14-12-2023 của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

- Bị cáo có kháng cáo:

Chau Vanh N, sinh ngày 05 tháng 01 năm 1991, tại tỉnh An Giang. Nơi ĐKHKTT: Tổ G, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; chỗ ở hiện nay: Ấp M, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chau K, sinh năm 1968 và bà Neáng H, sinh năm 1967 (đã chết); vợ Neáng Sâm M, sinh năm 1995; con 03 người, người con lớn nhất sinh năm 2013, người con nhỏ nhất sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu năm 2021, Chau Vanh N lên mạng xã hội Facebook đặt mua một khẩu súng rulo, kèm 06 viên đạn với giá 3.500.000 đồng. Nak mua thêm 15 viên đạn với giá 500.000 đồng. Sau khi nhận được súng và đạn, N cất giấu trên la phông nhà trọ của N thuê ở, tại địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. Mục đích mua súng, đạn để phòng thân, do N thường xuyên đi lại giữa hai tỉnh An Giang và tỉnh Long An vào ban đêm.

Ngày 08 – 01 - 2023, Hồ Văn P điện thoại rủ N đến phòng trọ của P để ăn tiệc, uống bia. Tại đây, P nói với N sẽ đánh nhau với nhóm của người tên B (không rõ nhân thân, lại lịch), do P và B trước đó có mâu thuẫn với nhau. Nhóm người của P gồm: Nak, Chau S, C, C, C, Hồ Văn H1, Thạch Còn N1, Thạch Si T, Hồ Vĩnh T1 và một số đối tượng khác là bạn của N (nhưng không rõ nhân thân lai lịch). Trong thời gian chờ nhóm của B đến, N bảo Chau S sử dụng xe máy chở về nhà trọ của N. Khi về đến nơi, N vào nhà trọ lấy: 01 khẩu súng đã mua trước đó, bên trong có lắp sẵn 06 viên đạn, lấy thêm 11 viên đạn, rồi bỏ vào trong túi đeo ngang vai; 01 cây kiếm N, dài khoảng 60cm có vỏ màu đen, rồi ra xe cùng Chau S quay trở lại phòng trọ của P. Khi trở lại phòng trọ của P, N ra khu vực ruộng rau muống gần phòng trọ bắn thử 01 viên đạn xuống ruộng để kiểm tra súng. Đến khoảng 23 giờ ngày 08-01-2023, nhóm của B đến, xảy ra đánh nhau giữa nhóm của P và B. Trong lúc đánh nhau, N lấy súng từ trong túi ra bắn chỉ thiên 02 phát, súng bị kẹt đạn, nên N cất lại súng vào trong túi đeo và lấy dao tự chế gần đó đuổi chém nhóm người của B. Nhóm người của B nghe tiếng súng nổ nên bỏ chạy. Sau khi đánh nhau, N lấy tua vít, mở ổ đạn, lấy 03 vỏ đạn đã bắn vứt dưới ghế đá tại khu vực nhà trọ của P và lắp tiếp 03 viên đạn vào ổ đạn đề phòng nhóm của B quay lại.

Đến ngày 09-01-2023, ông Đặng Văn V đến Công an xã M, huyện Đ trình báo sự việc con ông là Đặng Văn Cường L bị người khác gây thương tích vào ngày 08-01-2023. Sau khi được mời làm việc, Chau Vanh N đã giao nộp khẩu súng và 13 viên đạn chưa bắn.

Trong quá trình điều tra, Chau Vanh N còn khai nhận: Thời gian không nhớ rõ, sau khi mua súng, N đã sử dụng súng để đi bắn cò một mình, lần đó N đã bắn 04 viên đạn.

Tại Bản kết luận Giám định số: 1166/KL-KTHS ngày 06-3-2023 của Phân viện Khoa học Hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Khẩu súng ký hiệu A1, là súng ổ quay chế tạo thủ công, bắn đạn nổ cỡ (5,6 x 15,5) mm, có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng và là vũ khí quân dụng.

- 13 viên đạn ký hiệu A2, là đạn thể thao chưa bắn, không phải là đạn quân dụng và là đạn sử dụng cho khẩu súng trên.

- 03 vỏ đạn ký hiệu A3, là vỏ của đạn thể thao, không phải là vũ khí quân dụng, trong đó: 02 vỏ đạn là do khẩu súng trên bắn ra, 01 vỏ đạn không phải do khẩu súng trên bắn ra.

- 01 viên đạn ký hiệu A4, là đạn thể thao chưa bắn, không phải là vũ khí quân dụng và là đạn sử dụng cho khẩu súng trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 190/2023/HS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, đã tuyên xử:

Tuyên bố: Bị cáo Chau Vanh N phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 304; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm r và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Chau Vanh N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng theo quy định.

Sau khi xét xử: Ngày 19-12-2023, bị cáo Chau Vanh N kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo hoặc chuyển sang hình phạt tiền.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa, phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án có nội dung:

Về tố tụng: Bị cáo Chau Vanh N kháng cáo đúng thời hạn và đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự, nên vụ án đủ điều kiện để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Bị cáo vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa phúc thẩm và không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị xét xử vắng mặt bị cáo.

Về nội dung: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Chau V1 Nak phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng pháp luật và mức hình phạt đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp. Bị cáo kháng cáo không có căn cứ để chấp nhận, nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về kháng cáo: Bị cáo kháng cáo đúng theo quy định của pháp luật tại các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị cáo: Bị cáo vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa phúc thẩm không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án vắng mặt bị cáo.

[2] Về nội dung vụ việc và yêu cầu kháng cáo:

[2.1] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Chau V1 Nak phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự là xét xử đúng người, đúng tội.

[2.2] Xét kháng cáo của bị cáo:

Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, mức án 01 năm 06 tháng tù cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ mới ngoài các tình tiết mà cấp sơ thẩm đã xem xét, nên không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự quy định hình phạt chính là hình phạt tù và có khung hình phạt từ 01 năm đến 07 năm tù, không có quy định hình phạt chính là phạt tiền, nên kháng cáo yêu cầu phạt tiền của bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận. Xét thấy, đối với loại tội phạm “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” đang ngày càng gia tăng trên địa bàn tỉnh Long An cũng như cả nước nói chung, nên việc cho bị cáo được hưởng án treo sẽ không đáp ứng được công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, không chấp nhận kháng cáo cho bị cáo được hưởng án treo.

[3] Từ những nhận định trên, xét: Kháng cáo của bị cáo Chau Vanh N không có căn cứ để chấp nhận toàn bộ. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Giữ nguyên về hình phạt đối với bị cáo tại Bản án hình sự sơ thẩm số 190/2023/HS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

[4] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Chau Vanh N phải chịu 200.000 đồng do kháng cáo không được chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Chau Vanh N. Giữ nguyên về hình phạt đối với bị cáo Chau Vanh N tại Bản án hình sự sơ thẩm số 190/2023/HS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

2. Tuyên bố: Bị cáo Chau Vanh N phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 304; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm r và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Chau Vanh N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

3. Về án phí:

Căn cứ: Các Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Chau Vanh N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng số 36/2024/HS-PT

Số hiệu:36/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về