Bản án về tội tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí quân dụng (khẩu súng giống súng AK47) số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 08/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 08 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Quốc D, sinh năm 1994 tại B; Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã B, Huyện X, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Bá T, sinh năm 1947; Mẹ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1952;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giam ngày 31/7/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt).

2. Đoàn Đình N, sinh năm 1996 tại B; Hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã X, Huyện X, tỉnh B; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Đoàn Quang T, sinh năm 1970; Mẹ: Hoàng Thị M, sinh năm 1973; Vợ: Trần Thị N, sinh năm 2001; có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 13/7/2021, Đoàn Đình N bị Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Huyện X khởi tố bị can và ra lệnh tạm gia về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Bi cáo hiện đang bị tạm giam trong vụ án nêu trên (có mặt).

3. Triệu Vũ Đức H, sinh năm 1993 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú: phường 24, Quận B, thành phố H; Chỗ ở: Ấp N, xã X, Huyện X, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Triệu Văn H (Đã chết); Mẹ: Vũ Thị Kim C; Vợ: Bùi Thị T, sinh năm 1990; có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2017 nhỏ nhất sinh năm 2019.

Bị bắt, tạm giam ngày 27/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Mộng T, sinh năm 1970. Địa chỉ: Ấp N, xã X, Huyện X, tỉnh B (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 10 phút, ngày 31/7/2021, tại Quốc lộ 55 thuộc địa phận ấp Trang Định, xã Bông Trang, Huyện X, tỉnh B, Công an xã Bông Trang bắt quả tang Nguyễn Quốc D đang có hành vi tàng trữ vũ khí quân dụng. Tang vật thu giữ, gồm: 01 khẩu súng giống súng AK47, 01 hộp tiếp đạn bên trong có 04 viên đạn, 01 hộp giấy quấn băng keo màu đen bên trong có 15 viên đạn, 01 mô tô hiệu Yamaha, BKS: 72G1-xxxxx, 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 simcard điện thoại di động. Tiến hành khám xét chỗ ở của Nguyễn Quốc D tại tổ 8 ấp Trang Định, xã Bông Trang, Huyện X, Cơ quan CSĐT, Công an Huyện X tiếp tục thu giữ 01 khối kim loại hình viên đạn màu vàng đồng. Sau đó, Công an Huyện X bàn giao D và số vật chứng này cho Cơ quan An ninh điều tra, Công an tỉnh B tiến hành khởi tố, điều tra theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra các bị can khai nhận:

Khoảng cuối tháng 5/2021, Triệu Vũ Đức H trèo lên mái nhà của bố mẹ vợ là ông Bùi Mộng T, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1971, ở tại ấp Nhân Đức, xã X, Huyện X để quét dọn rác thì thấy khẩu súng AK đã bị gỉ sét trên mái nhà, H lấy súng xuống, lau chùi sạch gỉ sét. Thấy khẩu súng còn đầy đủ các bộ phận, có thể sử dụng được nên H đem vào nhà cất giấu.

Khoảng một tuần sau, H đem khẩu súng này ra khoe với Đoàn Đình N là bạn cùng đi làm thợ xây dựng với H và nói muốn bán khẩu súng với giá 1.500.000 đồng. N thấy khẩu súng còn sử dụng được mà giá lại rẻ, nên đồng ý mua để bán lại kiếm lời. Hôm sau, H mang khẩu súng này đến nhà của N, bán cho N được 1.500.000 đồng. N cất giấu súng dưới giường ngủ của mình.

Sau đó khoảng một tuần, Nguyễn Quốc D đến nhà Đoàn Đình N chơi (Cả hai tình cờ quen biết nhau từ đầu năm 2021). N lấy khẩu súng trên cho D xem và nói nếu ai mua thì N sẽ bán với giá 3.500.000 đồng. Do đã từng đi bộ đội, biết sử dụng súng AK nên D đồng ý mua súng để sử dụng phòng vệ và khi cần thiết thì mang ra hù dọa người khác. Theo thỏa thuận, chiều tối hôm sau, N mang khẩu súng này đến khu vực bìa rừng thuộc Khu B tồn thiên nhiên B - Phước Bửu ở xã Bông Trang, Huyện X, giao cho D mang khẩu súng về nhà cất giấu. D đã trả cho N 2.000.000 đồng, còn nợ 1.500.000 đồng tiền mua khẩu súng này.

Sau khi mua súng, D hỏi N biết ai bán đạn súng AK thì mua giúp, N tiếp tục nhờ H tìm mua. H lên mạng Internet tìm kiếm thông tin để tìm mua đạn súng AK. Sau đó, H liên hệ với 01 đối tượng (không rõ lai lịch) qua mạng xã hội Facebook, đặt mua 20 viên đạn với giá 300.000 đồng, việc giao nhận đạn thông qua dịch vụ giao hàng - thu tiền hộ. Hôm sau, H mang 20 viên đạn đựng trong hộp giấy đến nhà N, bán cho N 500.000 đồng. N gọi điện hẹn D đến khu vực bìa rừng để giao đạn cho D và nhận 500.000 đồng. D cầm đạn về nhà, cất giấu cùng với khẩu súng AK và 01 viên đạn mà D đã nhặt được trước đó (tổng cộng có 21 viên đạn). Sau đó, D mang súng và đạn vào trong rừng ở Huyện X bắn thử 03 viên nhưng có 01 viên đạn không nổ nên D nhặt lại. Đến ngày 31/7/2021, D mang súng AK và 19 viên đạn đến nhà Trần Vũ B để hù dọa B, trên đường đi thì bị phát hiện, bắt quả tang như trên đã nêu.

Kết luận giám định số: 3736/C09B ngày 02/8/2021 của Phân viện Khoa học hình sự, Bộ Công an tại thành phố H kết luận:

“1. Khẩu súng gửi giám định là súng Kalashnikov (AK), số trên bên trái thân súng: 1970 BX2253, số trên bên trái khóa nòng: BR 2212, số trên ốp khóa nòng: AK 8684. Súng sử dụng để bắn được với loại đạn cỡ 7,62mm x 39mm. Tiến hành bắn thực nghiệm, kết quả đạn nổ. Khẩu súng nêu trên là vũ khí quân dụng.

2. Hộp tiếp đạn gửi giám định sử dụng được cho khẩu súng nêu trên.

3. 04 (bốn) viên đạn trong hộp tiếp đạn và 15 (mười lăm) viên đạn trong hộp giấy gửi giám định là đạn quân dụng cỡ 7,62mm x 39mm, sử dụng để bắn được với khẩu súng nêu trên.

4. 01 (một) viên đạn màu vàng đồng gửi giám định là đạn cỡ 12,7mm x 108mm có dấu vết điểm hỏa (đã bắn), không phải là vũ khí quân dụng.”

* Việc thu giữ, tạm giữ vật chứng, đồ vật và xử lý vật chứng:

- Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Quốc D:

01 khẩu súng AK, số trên bên trái thân súng: 1970 BX2253, số trên bên trái khóa nòng: BR 2212, số trên ốp khóa nòng: AK 8684;

01 hộp tiếp đạn bằng kim loại, bên trong có 04 viên đạn, mỗi viên dài khoảng 5,5cm, đít đạn có ký hiệu 539-89;

01 hộp giấy có cuốn băng keo màu đen, bên trong có 15 viên đạn, mỗi viên dài khoảng 5,5cm, đít đạn có ký hiệu 539-89;

01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia 210, màu đen, số seri 1: 353149118663283, số seri 2: 353149119163283 và 01 sim điện thoại di động.

01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát: 72G1-xxxxx, Số máy: G3D4E665161; Số khung: 0610JY638829 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị B (sinh năm 1989, Nơi cư trú: ấp Trang Trí, xã Bông Trang, Huyện X, tỉnh BR-VT) cho D mượn để làm phương tiện đi lại tạm thời.

Chị B không biết việc D sử dụng xe để vận chuyển vũ khí nên Cơ quan ANĐT đã ra quyết định trả lại chiếc xe này cho chị Nguyễn Thị B vào ngày 15/10/2021.

- Vật chứng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Quốc D: 01 khối kim loại màu vàng đồng hình viên đạn.

Bản cáo trạng số 09/CT-VKS-P1 ngày 24/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã truy tố các bị cáo Đoàn Đình N và Triệu Vũ Đức H về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ Luật hình sự. Truy tố bị cáo Nguyễn Quốc D về tội “Tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ N cáo trạng truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc D từ 4 đến 5 năm tù; Đoàn Đình N và Triệu Vũ Đức H từ 3 đến 4 năm tù; Về xử lý vật chứng: đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định:

Vào khoảng tháng 5/2021, Triệu Vũ Đức H nhặt được khẩu súng AK trên mái nhà cha, mẹ vợ của H. Sau đó, H bán khẩu súng cho Đoàn Đình N với giá 1.500.000 đồng, N tiếp tục bán lại cho Nguyễn Quốc D với giá 3.500.000 đồng. Sau khi mua được khẩu súng này từ N, D hỏi mua đạn để sử dụng cho khẩu súng này thì N lại kêu H kiếm đạn bán tiếp cho N. Sau khi H mua được 20 viên đạn dùng để bắn cho khẩu súng AK nêu trên với giá 300.000 đồng từ người chưa rõ nhân thân, lai lịch thì H bán lại cho N với giá 500.000 đồng, N tiếp tục bán lại số đạn này cho D cũng với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được số đạn này, D đem về nhà cất giấu cùng với khẩu súng đã mua trước đó. Sau đó, D mang súng và đạn vào trong rừng ở Huyện X bắn thử 03 viên nhưng có 01 viên đạn không nổ. Đến ngày 31/7/2021, D đem súng và đạn này đi hù dọa Trần Vũ B thì bị bắt quả tang.

Hành vi mua, cất giấu và sử dụng súng đạn là vũ khí quân dụng của Nguyễn Quốc D đã phạm tội “Tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vụ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự; Hành vi cất giấu, mua bán súng đạn là vũ khí quân dụng của Đoàn Đình N và Triệu Vũ Đức H đã phạm tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự. Nội dung cáo trạng số 09/CT-VKS-P1 ngày 24/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B truy tố các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đều nhận thức được súng AK và đạn thật là vũ khí quân dụng được Nhà nước quản lý chặt chẽ, chỉ lực lượng vũ trang mới được phép sử dụng. Súng AK bắn đạn thật là vũ khí gây sát thương cao và gây nguy hiểm đến sức khỏe tính mạng của người sử dụng và người dân. Nhà nước nghiêm cấm cá nhân, tổ chức có hành vi liên quan đến việc mua bán, tàng trữ, chế tạo, sử dụng vũ khí quân dụng nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tội phạm. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý và sử dụng vũ khí quân dụng của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, có khả năng xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác. Vì vậy, cần phải xử lý các bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo đồng thời để phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 để giảm một phần hình phạt đối với các bị cáo.

[5] Xử lý vât chứng:

- 01 khẩu súng AK, số trên bên trái thân súng: 1970 BX2253, số trên bên trái khóa nòng: BR 2212, số trên ốp khóa nòng: AK 8684; 01 hộp tiếp đạn bằng kim loại, bên trong có 04 viên đạn, mỗi viên dài khoảng 5,5cm, đít đạn có ký hiệu 539-89; 01 hộp giấy có cuốn băng keo màu đen, bên trong có 15 viên đạn, mỗi viên dài khoảng 5,5cm, đít đạn có ký hiệu 539-89 là vũ khí quân dụng nên cần giao cho Bộ chỉ H quân sự tỉnh B bảo quản, xử lý theo quy định.

- 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia 210, màu đen, số seri 1: 353149118663283, số seri 2: 353149119163283 và 01 sim điện thoại di động được xác định là công cụ phương tiện của bị cáo D liên lạc với các bị cáo khác để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

- 01 khối kim loại màu vàng đồng hình viên đạn không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát: 72G1-xxxxx, Số máy: G3D4E665161; Số khung: 0610JY638829 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị B đã được cơ quan điều tra giao trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định pháp luật nên Tòa không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc D phạm tội “Tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí quân dụng”; các bị cáo Đoàn Đình N, Triệu Vũ Đức H phạm tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng”.

Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt Nguyễn Quốc D 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tình từ ngày 31/7/2021.

- Xử phạt Đoàn Đình N 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tình từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Xử phạt Triệu Vũ Đức H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tình từ ngày 27/10/2021.

2. Xử lý vât chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Giao Bộ chỉ H quân sự tỉnh B bảo quản, xử lý: 01 khẩu súng AK, số trên bên trái thân súng: 1970 BX2253, số trên bên trái khóa nòng: BR 2212, số trên ốp khóa nòng: AK 8684; 01 hộp tiếp đạn bằng kim loại, bên trong có 04 viên đạn, mỗi viên dài khoảng 5,5cm, đít đạn có ký hiệu 539-89; 01 hộp giấy có cuốn băng keo màu đen, bên trong có 15 viên đạn, mỗi viên dài khoảng 5,5cm, đít đạn có ký hiệu 539-89; (Các vật chứng này hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Cơ quan An ninh Công an tỉnh B theo Biên bản ngày 02/8/2021).

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia 210, màu đen, số seri 1: 353149118663283, số seri 2: 353149119163283 và 01 sim điện thoại di động.

- Tịch thu tiêu hủy 01 khối kim loại màu vàng đồng hình viên đạn.

(Vật chứng nêu trên Cục Thi hành án dân sự tỉnh B quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 24/BB-CTHADS ngày 26/01/2022) 3. Án phí: Các bị cáo Nguyễn Quốc D, Đoàn Đình N và Triệu Vũ Đức H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân Cấp cao tại thành phố H xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí quân dụng (khẩu súng giống súng AK47) số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Bị cáo Triệu Vũ Đức H nhặt được khẩu súng AK trên mái nhà cha mẹ vợ, sau đó bán cho Đoàn Đình N với giá 1.500.000 đồng. Tiếp đó, N bán lại cho Nguyễn Quốc D với giá 3.500.000 đồng. D hỏi mua đạn, N nhờ H kiếm đạn bán cho mình, rồi N bán lại cho D.

Ngày 31/07/2021, D mang súng và đạn đi hù dọa Trần Vũ B thì bị bắt quả tang. Kết quả giám định xác định đó là vũ khí quân dụng. Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra.

Tòa tuyên phạt bị cáo D 3 năm tù, N 2 năm tù và H 2 năm tù về tội danh trên. Các vật chứng là vũ khí quân dụng được giao cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh quản lý, xử lý theo quy định.