Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 150/2020/HS-ST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 150/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở TAND huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 155/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2020/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng G (K), sinh ngày 1986, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký NKTT: Ấp X, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh và nơi tạm trú hiện nay: Khu phố N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S (Chết) và bà Nguyễn Thị M; Vợ con chưa có; Tiền án: Không;

Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ bị tạm giữ ngày 09-10-2020, đến ngày 15-10- 2020 bị tạm giam cho đến nay.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo G bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy từ tháng 6 năm 2020. Nên ngày 06-10-2020, bị cáo G đến khu vực ngã tư X thuộc thị trấn G, huyện G, mua 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng của người phụ nữ không rõ lý lịch đem về cất giấu để sử dụng, nhưng khi về đến khu vực ngã tư B thuộc khu phố T, thị trấn G thì gặp Ngô Tấn T hỏi mua ma túy. Bị cáo G đồng ý và phân bịch ma túy thành 02 bịch nhỏ, rồi bán lại cho T 01 bịch với giá 100.000 đồng, còn lại 01 bịch ma túy bị cáo G đem về sử dụng.

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 09-10-2020, bị cáo G tiếp tục đến khu vực ngã tư X mua 01 bịch ma túy với giá 400.000 đồng của một người phụ nữ nêu trên cất giấu trong người với mục đích đem về nhà để sử dụng. Sau đó, bị cáo G điều khiển xe đạp đến khu vực ấp S, xã P, huyện G, để nhặt ve chai thì bị Công an xã P kiểm tra bắt quả tang, thu giữ vật chứng 01 bịch nylon trong suốt bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng (Ký hiệu PĐ1).

Quá trình điều tra, bị cáo G đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình.

Tại Kết luận giám định số 1669 ngày 12-10-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon trong suốt (Ký hiệu PĐ1) gửi đến giám định là chất ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng 0,7000 gam.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Có bảng thống kê kèm theo.

Về kê biên tài sản: Do bị cáo G không có tài sản nên Cơ quan điều tra không kê biên.

Tại bản Cáo trạng số: 01/CT-VKSGD ngày 02 tháng 12 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng cũng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo mức án từ 03 năm đến 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội” Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội bị cáo phải chấp hành là 05 năm 6 tháng đến 07 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có lời nói sau cùng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Do muốn có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy nên ngày 06-10-2020, bị cáo G đến khu vực ngã tư X thuộc thị trấn G, huyện G, mua 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng của người phụ nữ không rõ lý lịch đem về cất giấu để sử dụng, nhưng khi về đến khu vực ngã tư B thuộc khu phố T, thị trấn G thì gặp Ngô Tấn T hỏi mua ma túy. Bị cáo G đồng ý và phân bịch ma túy thành 02 bịch nhỏ, rồi bán lại cho T 01 bịch với giá 100.000 đồng, còn lại 01 bịch ma túy bị cáo đem về sử dụng. Sau đó khoảng 07 giờ 30 phút ngày 09-10-2020, bị cáo G tiếp tục đến khu vực ngã tư X mua 01 bịch ma túy với giá 400.000 đồng của một người phụ nữ nêu trên cất giấu trong người với mục đích đem về nhà để sử dụng. Khi bị cáo G điều khiển xe đạp đến khu vực ấp S, xã P, huyện G, để nhặt ve chai thì bị Công an xã P kiểm tra bắt quả tang. Công an thu giữ vật chứng 01 bịch nylon trong suốt bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng, gửi giám định là chất ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng 0,7000 gam. Do đó có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân bị cáo biết việc tàng trữ và mua bán trái phép các chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo không tuân thủ. Hành vi của bị cáo là trái pháp luật, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

[4] Về hình phạt bổ sung thì thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Đối với 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 1669/KL-KTHS có dấu đỏ tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tây Ninh và chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết M bên trong có mẫu vật hoàng lại sau giám định khối lượng 0,592g (không phẩy năm chín hai gam) là chất ma túy, loại Methamphetamine Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe đạp màu trắng của bị cáo dùng vào việc mua bán ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Hoàng G phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng G (K) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng G (K) mức án từ 03 (ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội bị cáo phải chấp hành là 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09- 10-2020.

2. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 1669/KL-KTHS có dấu đỏ tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tây Ninh và chữ ký của giá m định viên Nguyễn Thị Tuyết M bên trong có mẫu vật hoàng lại sau giám định khối lượng 0,592g (không phẩy năm chín hai gam) là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe đạp màu trắng.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Hoàng G (K) phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 150/2020/HS-ST

Số hiệu:150/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về