Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 74/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 76/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Quang S - sinh năm 1976, tại S, Phú Thọ; Giới tính: nam; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Khu Đồng Phú, xã Thạch Khoán, huyện S, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang H (Đã chết) và bà Vũ Thị H1, sinh năm 1950; vợ: Nguyễn Thị T - sinh năm 1976 (Đã ly hôn), con: Lê Tùng Lâm, sinh năm 1996; tiền án: Có 01 tiền án: Bản án số 38/2019/HSST ngày 29/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phí hình sự ngày 05/12/2019, trở về địa phương ngày 26/10/2020, đến ngày phạm tội chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không; Lịch sử bản thân: Bản án số 11/2012/HSST ngày 27/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong toàn bộ bản án, trở về địa phương ngày 09/08/2013; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/8/2021, đang thi hành Lệnh tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. A Nguyễn Tiến H2 - sinh năm 1973,(Vắng mặt).

Địa chỉ: Phố Hạ S, thị trấn S, huyện S, tỉnh Phú Thọ.

2. A Đoàn Văn K - sinh năm 1963,(Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu Sụ Tr, xã T, huyện S, tỉnh Phú Thọ.

3. A Bùi Thế A - sinh năm 1962,(Vắng mặt).

Đị chỉ: Khu 6, xã T, huyện S, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 20 phút ngày 16/8/2021, Công an xã Tinh Nhuệ phối hợp cùng Chốt kiểm tra Covid 19 điểm xã Tinh Nhuệ đang làm nhiệm vụ tại xóm Gò Đa, xã Tinh Nhuệ, huyện S, tỉnh Phú Thọ, phát hiện Lê Quang S điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS mang BKS: 19K7 - xxxx có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra chiếc xe máy do S điều khiển phát hiện tại vị trí bên trong đèn tự chế (đèn Led) gắn gần vị trí gương chiếu hậu bên trái có 02 gói giấy trong đó: 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong có gói nilon màu xanh chứa chất bột cục màu trắng;

01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng. Lê Quang S tự khai nhận đây đều là ma túy loại Heroine của S vừa mua tại khu vực Cầu Cứng, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình ngày 16/8/2021. Tổ công tác đã lập biên bản và tiến hành thu giữ, niêm phong 02 gói giấy của Lê Quang S theo quy định; tạm giữ của Lê Quang S: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ, gắn sim của số điện thoại 0837.861.xxx; 01 ví giả da màu nâu, đã cũ, bên trong có 220.000 VNĐ gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ, 01 tờ tiền mệnh giá 50.000đ và 07 tờ tiền mệnh giá 10.000đ; 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu đen bạc, đã cũ, mang BKS: 19K7 - xxxx.

Tại kết luận giám định số 978/KLGĐ-PC09 ngày 19/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 0,520 gam.

* Heroine là chất ma túy, có số thứ tự 09 Danh mục I Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

Ngày 19/8/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện S đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra Lệnh tạm giam đối với Lê Quang S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 249 BLHS. Quyết định khởi tố bị can, Lệnh tạm giam đối với Lê Quang S của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện S phê chuẩn để tiến hành điều tra theo quy định.

Quá trình điều tra, Lê Quang S khai nhận: Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 16/8/2021, S nhận được điện thoại của anh Nguyễn Tiến H2 (SN:

1973, HKTT: Phố Hạ S, thị trấn S, huyện S, tỉnh Phú Thọ) rủ đi lên thành phố Hòa Bình mua ma túy, S đồng ý và hẹn H2 đến nhà S ở Khu Đồng Phú, xã Thạch Khoán, huyện S để cùng đi. Sau đó, S nhận được điện thoại của Bùi Thế A hỏi tìm chỗ mua ma túy, S nói mình chuẩn bị đi Hòa Bình mua ma túy thì được A nhờ mua hộ 500.000đ tiền ma túy. S đồng ý và hẹn gặp A tại khu vực đường đôi thuộc Khu 8, xã Giáp Lai, huyện S, tỉnh Phú Thọ để lấy tiền. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, S gặp A tại khu vực như đã hẹn trước, A đưa cho S số tiền 500.000đ gồm nhiều tờ tiền có mệnh giá từ 50.000đ đến 100.000đ, S nhận tiền và hẹn A đến chiều sẽ có ma túy (việc S và A gặp nhau không có ai biết). Sau khi nhận số tiền 500.000đ của A, S đi về nhà thì gặp Nguyễn Tiến H2 đang đi xe máy đến nhà S. Sau đó, S và H2 đi cùng một xe máy của H2 là loại xe YAMAHA SIRIUS, BKS: 19K7 - xxxx đi theo hướng ra huyện Thanh Thủy để đi thành phố Hòa Bình. Khi đi đến khu vực gần UBND xã Tinh Nhuệ, huyện S thì H2 xuống xe và đưa cho S số tiền 1.900.000đ để S đi mua ma túy. S nhận số tiền H2 đưa rồi điều khiển xe máy BKS: 19K7 - xxxx đi lên khu vực Cầu Cứng thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình để tìm mua ma túy. Tại đây, S gặp một người đàn ông khoảng 60 tuổi không quen biết, S hỏi mua ma túy loại Heroine với số tiền 1.900.000đ thì người này đồng ý và đòi thêm 300.000đ tiền công đi lấy ma túy. S đưa cho người đàn ông này số tiền 2.200.000đ, người này nhận tiền rồi đi lấy ma túy. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông nêu trên quay lại đưa cho S 01 gói ma túy loại Heroine gói bằng giấy có mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng. S nhận gói ma túy rồi đi xe máy về đến khu vực bến xe Bình A thuộc thành phố Hòa Bình. S lấy gói ma túy vừa mua được rồi tách ra một phần nhỏ sử dụng hết bằng hình thức tiêm chích. Số ma túy còn lại, S chia thành 02 gói, trong đó, 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong có gói nilon màu xanh chứa chất bột cục màu trắng; 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng rồi cất giấu vào vị trí bên trong đèn Led gắn gần gương chiếu hậu bên trái của xe máy rồi đi về. Khi đi đến Chốt kiểm dịch Covid 19 thuộc xóm Gò Đa, xã Tinh Nhuệ, huyện S thì bị kiểm tra, phát hiện thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

S khai, bản thân khi đi mua ma túy có khoảng 300.000đ, S dùng số tiền này cùng với số tiền của A và H2 đưa, tổng số tiền là khoảng 2.700.000đ để mua ma túy và chi tiêu đi đường. S đã sử dụng 280.000đ để test Covid khi đi qua chốt kiểm dịch và mua nước, đổ xăng xe máy, mua xi lanh và nước cất; số tiền 2.200.000đ để mua ma túy; còn lại số tiền 220.000đ, S sử dụng để chi tiêu trên đường về nhà, không dùng vào việc mua ma túy.

Căn cứ lời khai của Lê Quang S, Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập, làm việc với Nguyễn Tiến H2. Quá trình làm việc, Nguyễn Tiến H2 khai nhận: Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 16/8/2021, khi H2 đang làm bảo vệ trông xe tại khu vực Chợ Vàng thị trấn S, huyện S thì gặp Lê Quang S đi bộ đến. S hỏi mượn xe máy của H2 để về nhà có việc. Do có mối quan hệ quen biết với S nên H2 đồng ý cho S mượn xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, mang BKS: 19K7 - xxxx và yêu cầu S đến chiều phải mang xe máy đến trả. Sau đó, H2 tiếp tục công việc trông xe đến trưa thì về nhà. Tuy nhiên, đến chiều cùng ngày H2 không thấy S trả xe. H2 không rủ và không đưa tiền cho S đi mua ma túy, khi làm việc với Cơ quan điều tra thì H2 mới biết S đã sử dụng xe máy BKS: 19K7 - xxxx của H2 để đi mua ma túy. Cơ quan CSĐT - Công an huyện S đã tiến hành đối chất giữa Lê Quang S và Nguyễn Tiến H2, kết quả: S và H2 vẫn giữ nguyên lời khai của bản thân.

Cơ quan CSĐT - Công an huyện S tiến hành triệu tập, làm việc với Bùi Thế A. Tại Cơ quan điều tra, Bùi Thế A khai nhận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 16/8/2021, Bùi Thế A đang ở quán bán hàng ở Khu 8, xã Giáp Lai, huyện S thì nhận được cuộc gọi từ số điện thoại 0837.861.xxx của Lê Quang S hỏi A có mua ma túy không vì S chuẩn bị đi mua ma túy. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên A nhờ S mua hộ 500.000đ ma túy loại Heroine, không cụ thể khối lượng bao nhiêu. S hẹn đến chiều sẽ mang ma túy đưa cho A, tuy nhiên A chưa đưa tiền mua ma túy cho S. A ở nhà đợi đến chiều không thấy S đến và do không còn nhu cầu sử dụng ma túy nên đã dùng số điện thoại 0962.219.xxx gọi cho S để nói không mua ma túy nữa nhưng không liên lạc được (lúc này, S đã bị bắt). Việc A trao đổi nội dung nhờ S mua hộ ma túy có Đoàn Văn K là bạn của Bùi Thế A có mặt chứng kiến.

Cơ quan CSĐT - Công an huyện S tiến hành triệu tập, làm việc với Đoàn Văn K. Quá trình làm việc, Đoàn Văn K khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 16/8/2021, khi Đoàn Văn K đang ngồi nói chuyện với Bùi Thế A tại quán bán hàng của A ở Khu 8, xã Giáp Lai, huyện S, tỉnh Phú Thọ thì thấy A có điện thoại, K nghe thấy A nhờ mua hộ ma túy với số tiền 500.000đ. Sau khi A nghe điện thoại xong, K hỏi thì được A nói lại là nhờ anh S người ở Thạch Khoán mua hộ ma túy. Sau đó, K chơi ở nhà Bùi Thế A đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì đi về nhà. Tr thời gian này, K không thấy S mang ma túy đến cho A và cũng không thấy A đi ra ngoài để gặp S.

Ngoài nội dung trên, Đoàn Văn K còn khai nhận đã có 01 lần mua ma túy của Lê Quang S vào ngày 14/8/2021 như sau: Khoảng 12 giờ ngày 14/8/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên K sử dụng số điện thoại 0868.298.xxx gọi đến số điện thoại 0837.861.xxx của Lê Quang S để hỏi mua ma túy loại Heroine với số tiền 300.000đ. S đồng ý và hẹn K đến cổng nhà S ở khu Đồng Phú, xã Thạch Khoán, huyện S để giao dịch mua bán ma túy. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày (14/8/2021), K đi xe máy một mình đến trước cổng nhà ở của S. Khi gặp S, K đưa cho S 300.000đ gồm 03 tờ tiền mệnh giá 100.000đ, S đưa cho K 01 gói ma túy loại Heroine được gói bằng giấy màu trắng bên ngoài bọc nilon màu trắng. Sau khi mua được ma túy của S thì K mang về sử dụng một mình hết.

Quá trình làm việc Cơ quan điều tra đã cho Test nhanh chất ma túy đối với Đoàn Văn K cho kết quả Dương tính với chất ma túy.

Căn cứ lời khai của Đoàn Văn K, Cơ quan CSĐT - Công an huyện S tiến hành làm việc với Lê Quang S, S khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 14/8/2021, S nhận được điện thoại của Đoàn Văn K nhờ mua hộ 300.000đ tiền ma túy loại Heroine, S đồng ý và hẹn K đến nhà ở của mình để lấy ma túy. Sau khi nhận được điện thoại của K, S điện đến số điện thoại 0387.968.xxx của Trần Ngọc Tĩnh để hỏi mua ma túy với số tiền 300.000đ và được Tĩnh bán cho 01 gói ma túy loại Heroine được gói bằng giấy màu trắng bên ngoài bọc nilon màu trắng. Sau khi mua được ma túy của Tĩnh, khoảng 15 giờ cùng ngày (14/8/2021) S đã bán gói ma túy trên cho Đoàn Văn K được K trả số tiền 300.000đ gồm 03 tờ tiền mệnh giá 100.000đ. Sau khi nhận được tiền từ K, S đã chi tiêu cá nhân hết. Cơ quan CSĐT - Công an huyện S đã tiến hành đối chất giữa Đoàn Văn K và Lê Quang S. Kết quả cả S và K đều khai nhận phù hợp về hành vi mua bán trái phép chất ma túy vào ngày 14/8/2021. Ngày 19/8/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành trích xuất lịch sử cuộc gọi của số điện thoại 0868.298.xxx của Đoàn Văn K và lịch sử cuộc gọi của số điện thoại 0837.861.xxx của Lê Quang S. Kết quả: Từ 11 giờ 45 phút đến 12 giờ 52 phút ngày 14/8/2021, số điện thoại 0868.298.xxx của Đoàn Văn K và số điện thoại 0837.861.xxx của Lê Quang S có nhiều cuộc gọi đi, gọi đến với nhau. Tiến hành làm việc với Lê Quang S và Đoàn Văn K đều khẳng định những cuộc gọi đi, gọi đến vào ngày 14/8/2021 đều để trao đổi nội dung mua bán ma túy.

Cơ quan CSĐT - Công an huyện S đã triệu tập làm việc với Trần Ngọc Tĩnh, Tĩnh khai: Giữa Tĩnh và S có mối quan hệ quen biết với nhau và thường xuyên liên lạc với nhau để trò chuyện và hỏi thăm sức khỏe. Tĩnh khai không sử dụng ma túy và không bán ma túy cho Lê Quang S vào ngày 14/8/2021 như S đã khai. Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa Lê Quang S và Trần Ngọc Tĩnh, kết quả cả S và Tĩnh vẫn giữa nguyên lời khai của bản thân. Ngoài lời khai của S không có tài liệu chứng cứ nào khác, do vậy không có đủ cơ sở xác định lời khai của Lê Quang S về việc Trần Ngọc Tĩnh có bán ma túy cho S ngày 14/8/2021.

Tại phiên tòa bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, nhưng không đồng ý đối chất tại phiên tòa với Nguyễn Tiến H2 và Bùi Thế A.

Tại bản cáo trạng số 75/CT-VKS-ThS ngày 25 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố bị cáo Lê Quang S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ", theo quy định tại Điểm a, c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm a, c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm a khoản 1 Điều 55 - Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Lê Quang S từ 24 (Hai mươi bốn ) đến 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ; Từ 24 (hai mươi bốn) đến 30 (ba mươi) tháng về tội “ Mua bán trái phép các chất ma túy” .

Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội, buộc Lê Quang S phải chấp hành hình phạt từ 48 đến 60 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam là ngày 16/8/2021.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung theo qui định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 – BLHS cho bị cáo Lê Quang S.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì giấy số 978/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ. Bì ghi: Hoàn lại 0,251 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gửi đến giám định; 01 sim điện thoại di động số 0837.861.xxx gắn trong điện thoại của Lê Quang S; 01 sim điện thoại di động số 0868.298.xxx gắn trong điện thoại di động của Đoàn Văn K.

Trả lại các tài sản không liên quan đến tội phạm cho chủ sở hữu hợp pháp:

- Trả lại cho bị cáo Lê Quang S 220.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01 (một) ví giả da màu nâu, đã cũ .

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ, gắn sim của số điện thoại 0865.707.xxx cho Nguyễn Tiến H2, - 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J4, màu tím, đã cũ, màn hình bị rạn nứt, gắn sim của số điện thoại 0962.219.xxx cho Bùi Thế A.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1110i, màu trắng, đen, đã cũ, gắn sim của số điện thoại 0387.968.xxx cho Trần Ngọc Tĩnh.

Tịch thu bán sung quỹ nhà nước vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ thu giữ của Lê Quang S, là công cụ S sử dụng liên lạc mua bán ma túy với Đoàn Văn K;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ thu giữ của Đoàn Văn K, là công cụ K sử dụng liên lạc mua ma túy của Lê Quang S.

- Truy thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 300.000đ của bị cáo S bán ma túy cho Đoàn Văn K ngày 14/8/2021.

Vật chứng là tiền được chuyển đến tài khoản 3941.0.904xxxx.00000 tại kho bạc Nhà nước huyện S; Vật chứng là đồ vật được tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện S.

* Xác nhận: Ngày 01/10/2021, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Tiến H2 01 (một) xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu đen bạc, đã cũ, mang BKS: 19K7 – xxxx .

Bị cáo S không tranh luận gì với Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về cộng đồng và sống có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử: Đã thực hiện đúng thẩm quyền; đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Quang S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận cáo trạng truy tố là không có gì oan sai. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với Biên bản kiểm tra người có hành vi vi phạm pháp luật, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo S là người đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do S là đối tượng nghiện ma túy đã nhiều năm nên vào hồi Hồi 13 giờ 20 phút ngày 16/8/2021, tại xóm Gò Đa, xã Tinh Nhuệ, huyện S, tỉnh Phú Thọ, Lê Quang S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,520 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Ngày 14/8/2021 tại khu Đồng Phú, xã Thạch Khoán, huyện S, tỉnh Phú Thọ, Lê Quang S đã có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy loại Heroine cho Đoàn Văn K với giá 300.000 đồng. Hành vi nêu trên của Lê Quang S đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 249 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 – BLHS năm 2015. Như vậy, Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện S đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Vụ án có tính chất nghiêm trọng bởi hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Ma tuý là chất gây nghiện, đầu độc thần kinh con người, là nguyên nhân làm phát sinh các hành vi phạm tội khác như: Trộm cắp, cướp của giết người... Thấy tác hại của ma túy, Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết đấu tranh và áp dụng chế tài nghiêm khắc đối với loại tội phạm này. Trên địa bàn huyện S trong nhiều năm trở lại đây tình hình về tội phạm ma túy có chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp nên cần sử phạt nghiêm minh các tội phạm về ma túy góp phần đấu tranh loại bỏ dần các loại tội phạm trên địa bàn. Xét thấy, cần buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trước lần phạm tội này, bị cáo đã có tiền án về tội phạm ma túy nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về ma túy nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố đẻ là ông Lê Quang Huấn được được tặng Huân huy chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 bộ luật hình sự 2015.

Căn cứ nhân thân, tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Những phân tích, đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị mức hình phạt của Kiểm Sát Viên tại phiên tòa là có căn cứ. Xét thấy, cần phạt bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt đối với cả hai tội và tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là có căn cứ qui định tại điểm a khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 251- BLHS. Cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo sớm hoàn lương trở thành người sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 – BLHS thì bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Căn cứ vào các tài liệu xác minh của cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã chứng minh, bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp ổn định, hiện sống cùng con đẻ tại xã Thạch Khoán nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] . Về vật chứng vụ án: Ma túy do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, lưu hành của các cá nhân, tổ chức; Vật chứng không còn giá trị sử dùng nên tịch thu tiêu hủy theo qui định pháp luật, gồm:

- 01 bì giấy số 978/KLGĐ đã được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ, ghi: Hoàn lại 0,251 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gửi đến giám định; 01 sim điện thoại di động số 0837.861.xxx gắn trong điện thoại của Lê Quang S; 01 sim điện thoại di động số 0868.298.xxx gắn trong điện thoại di động của Đoàn Văn K.

Tịch thu bán nộp ngân sách Nhà nước vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội còn giá trị sử dụng:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ thu giữ của Lê Quang S sử dụng liên lạc mua bán ma túy với Đoàn Văn K;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ thu giữ của Đoàn Văn K sử dụng liên lạc mua ma túy của Lê Quang S.

- Đối với số tiền 300.000đ bị cáo S bán ma túy cho Đoàn Văn K ngày 14/8/2021 mà có, bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết nên truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

c đồ vật Cơ quan điều tra đã thu giữ nhưng không liên quan đến tội phạm, trả cho chủ sở hữu hợp pháp:

- Trả lại cho bị cáo Lê Quang S số tiền 220.000 đồng, là tài sản của Lê Quang S, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01 ví giả da màu nâu, đã cũ - 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ gắn sim của số điện thoại 0865.707.xxx cho Nguyễn Tiến H2, - 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J4, màu tím, đã cũ, màn hình bị rạn nứt, gắn sim của số điện thoại 0962.219.xxx cho Bùi Thế A.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1110i, màu trắng, đen, đã cũ, gắn sim của số điện thoại 0387.968.xxx cho Trần Ngọc Tĩnh.

- 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu đen bạc, đã cũ, mang BKS:

19K7 - xxxx là phương tiện S sử dụng để đi mua và cất giấu ma túy. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ chiếc xe máy trên là tài sản thuộc sở hữu của anh Nguyễn Tiến H2, cho bị cáo S mượn ngày 16/8/2021. Quá trình điều tra xác định anh H2 không biết S sử dụng xe vào việc đi mua và cất giấu ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe máy có đặc điểm nêu trên cho anh H2 ngày 01/10/2021 là hợp pháp.

Vật chứng là tiền được chuyển đến tài khoản 3941.0.904xxxx.00000 tại kho bạc Nhà nước huyện S; Vật chứng là đồ vật được tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện S.

[7] Các nội dung khác:

- Đối với Bùi Thế A , bị cáo S khai, khoảng 10 giờ ngày 16/8/2021, A đưa 500.000đ nhờ mua ma túy. Tại cơ quan điều tra, Bùi Thế A không thừa nhận đã đưa 500.000đ cho bị cáo S. Do A và bị cáo S không có thỏa thuận mua cụ thể khối lượng ma túy là bao nhiêu nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ chứng minh hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 16/8/2021 của A với vai trò đồng phạm cùng bị cáo S . Cơ quan điều tra chỉ cảnh cáo, nhắc nhở đối với A là phù hợp.

- Đối với Nguyễn Tiến H2: Quá trình điều tra, H2 không thừa nhận việc đưa số tiền 1.900.000đ cho S và cùng S đi mua ma túy. Ngoài lời khai của bản thân, S không có chứng cứ, tài liệu nào khác chứng minh cho lời khai của mình là có căn cứ. Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp điều tra nhưng không chứng minh được việc H2 đưa tiền và cùng S đi mua ma túy. Tại phiên tòa bị cáo S từ chối tham gia đối chất với Nguyễn Tiến H2. Do vậy không đủ căn cứ chứng minh hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 16/8/2021 của H2 với vai trò đồng phạm cùng bị cáo S.

- Đối với Đoàn Văn K: Ngày 14/8/2021 K đã có hành vi mua 300.000đ ma túy loại Heroine của Lê Quang S để sử dụng. Kết quả test nhanh chất ma túy đối với Đoàn Văn K cho kết quả Dương tính với chất ma túy. Do K đã sử dụng cá nhân hết số ma túy này nên Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng và không có căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự đối với K. Hành vi của Đoàn Văn K là hành vi vi phạm hành chính. Cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu đến Công an huyện S để ra Quyết định xử phạt hành chính đối với K về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Khoản 1, Điều 21, Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ xét thấy là phù hợp, nên cần chấp nhận.

- Đối với Trần Ngọc Tĩnh: Quá trình điều tra, Tĩnh không thừa nhận việc bán ma túy cho S. Ngoài lời khai của bản thân, S không có chứng cứ, tài liệu nào khác chứng minh cho lời khai của mình. Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp điều tra nhưng không có căn cứ chứng minh việc Tĩnh bán ma túy cho S. Do đó, không có căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự hay hành chính đối với Tĩnh.

- Về đối tượng bán ma túy cho Lê Quang S vào ngày 16/8/2021: Quá trình điều tra, bị can Lê Quang S không biết người bán ma túy cho mình là ai, ở đâu. Việc mua bán ma túy giữa Lê Quang S và đối tượng này không có ai biết. Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ, xử lý đối với người đã bán số ma túy nêu trên cho S. Do vậy, Cơ quan điều tra tách nội dung điều tra này ra, khi có căn cứ sẽ đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật, xét thấy là phù hợp.

[8]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 249; Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 - Bộ luật hình sự năm 2015;

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Quang S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

Xử phạt: Bị cáo Lê Quang S 26 (hai mươi sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” 26 (hai mươi sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự 2015: Buộc bị cáo Lê Quang S phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 52 ( năm mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/8/2021.

Miễn hình phạt bổ sung theo qui định tại khoản 5 Điều 249 và Điều 251 cho bị cáo Lê Quang S.

2 . Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1; Điểm a, b, c khoản 2; Điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: 01 (một) bì giấy số 978/KLGĐ đã được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ, ghi: Hoàn lại 0,251 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gửi đến giám định;

01(một) sim điện thoại di động số 0837.861.xxx gắn trong điện thoại của Lê Quang S; 01(một) sim điện thoại di động số 0868.298.xxx gắn trong điện thoại di động của Đoàn Văn K.

Tịch thu bán nộp ngân sách Nhà nước các vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ của Lê Quang S; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ của Đoàn Văn K.

Truy thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn) đồng của bị cáo Lê Quang S bán ma túy cho Đoàn Văn K ngày 14/8/2021.

Trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp các tài sản sau:

- Bị cáo Lê Quang S : 220.000 đồng( Hai trăm hai mươi nghìn) đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01 (một) ví giả da màu nâu, đã cũ.

- Nguyễn Tiến H2 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã cũ gắn sim của số điện thoại 0865.707.xxx.

- Bùi Thế A 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J4, màu tím, đã cũ, màn hình bị rạn nứt, gắn sim của số điện thoại 0962.219.xxx.

- Trần Ngọc Tĩnh 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1110i, màu trắng, đen, đã cũ, gắn sim của số điện thoại 0387.968.xxx.

Vật chứng là tiền được chuyển đến tài khoản 3941.0.904xxxx.00000 tại kho bạc Nhà nước huyện S; Vật chứng là đồ vật được tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện S theo biên bản ngày 06/12/2021.

Xác nhận: Biên bản trả lại tài sản ngày 01/10/2021, theo Quyết định xử lý vật chứng số 19/CSĐT, ngày 30/9/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, trả lại 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu đen bạc, đã cũ, mang BKS: 19K7 – xxxx cho anh Nguyễn Tiến H2 là hợp pháp.

3. Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Quang S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7,7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30- Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 74/2021/HS-ST

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về