TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 422/2021/HS-ST NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ
Nguyễn Văn L, sinh năm: 1999 tại Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: tổ 38, khu phố 6, phường M, thành phố H, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Gia sư; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L1, sinh năm: 1966 (đã chết) và bà Trịnh Thị Thu H, sinh năm: 1971; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 02 tháng 02 năm 2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai; Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị được xét xử vắng mặt.Ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 433/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 427/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử số: 1045/2021/TB-HS ngày 07 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Lê Văn Th, sinh năm: 1995;
Địa chỉ: khu phố 6, phường B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
2. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm: 2001;
Địa chỉ: khu phố 3, phường M, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
(Anh Th và anh M đều vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn L tạo tài khoản Facebook tên “Linh Nguyễn” và “Giáp Nguyễn” để tìm hiểu mua tiền giả. Ngày 28/01/2021, L sử dụng tài khoản “Giáp Nguyễn” liên lạc với tài khoản “Chính là toi” thỏa thuận mua 4.500.000đ (bốn triệu, năm trăm nghìn đồng) tiền giả loại có mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) với giá 2.200.000đ (hai triệu, hai trăm nghìn đồng).
Đến khoảng 20 giờ ngày 30/01/2021, L sử dụng xe Honda Airblade biển số: 54X9-5471 và rủ Lương Văn K đi cùng đến khu vực cổng Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai thuộc khu phố 3, phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa. Cả hai đứng chờ một lúc thì có 01 người đàn ông đeo khẩu trang đi xe máy đến gặp L, giới thiệu là người sử dụng tài khoản Facebook “Chính là toi” và đưa L 01 gói nylon màu đen, bên trong có 4.500.000đ (bốn triệu, năm trăm nghìn đồng) tiền giả loại mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng); L trả cho người đó 2.200.000đ (hai triệu, hai trăm nghìn đồng) rồi đưa túi tiền giả cho K ngồi phía sau cầm và điều khiển xe chở cả hai về nhà tại tổ 38, khu phố 6, phường M, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
Sau khi có tiền giả, L đã sử dụng 02 tờ tiền giả để thanh toán tiền mua thức ăn qua ứng dụng “Now” của Công ty cổ phần Foody. Cụ thể:
- Vào tối ngày 31/01/2021, L đặt mua thức ăn với giá 420.000đ (bốn trăm hai mươi nghìn đồng) và sử dụng 01 tờ tiền giả trả cho anh Lê Văn Th (người giao thức ăn), anh Th trả lại 80.000đ (tám mươi nghìn đồng) tiền thừa cho L.
- Ngày 01/02/2021, L tiếp tục đặt mua thức ăn với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và sử dụng 01 tờ tiền giả trả cho anh Nguyễn Văn M (người giao thức ăn), anh M trả lại 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền thừa cho L.
Đến khoảng 23 giờ ngày 01/02/2021, khi anh Th và anh M phát hiện 02 tờ tiền do L thanh toán tiền mua thức ăn là tiền giả nên đã trình báo và giao nộp 02 tờ tiền giả cho Công an phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa.
Khi L biết sự việc bị phát hiện và Cơ quan Công an mời lên làm việc thì L nói cho mẹ là bà Trịnh Thị Thu H, chị ruột là chị Nguyễn Thị Thúy D biết; đồng thời L lấy 07 tờ tiền giả còn lại đưa cho chị D cất giữ bên trong ốp lưng điện thoại. Đến khoảng 05 giờ sáng ngày 02/02/2021 thì bà H đem 07 tờ tiền giả nêu trên đến cầu Long Sơn thuộc khu phố 6, phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa vứt xuống sông Đồng Nai.
Vật chứng được thu giữ trong vụ án:
- 02 tờ tiền giả loại mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S A1601 có sim số: 0366729147; 01 xe môtô hiệu Honda Airblade màu đen biển số: 54X9-5471, có số máy: JF27E0005505 và số khung: RLHJF1801AY005059.
Tại Kết luận giám định số: 289/KLGĐ-PC09 ngày 02/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “02 tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mệnh giá 500.000đ nêu ở phần mẫu cần giám định (ký hiệu A1, A2) đều là tiền giả”.
Tại Cáo trạng số: 4241/CT-VKS-P1 ngày 23 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả” theo khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa (được sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai thực hành quyền công tố tại phiên tòa) trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
- Khoản 1 Điều 207; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo L từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.
- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự để:
+ Tịch thu tiêu hủy 02 tờ tiền giả loại mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) là vật chứng của vụ án.
+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S A1601 có sim số: 0366729147; 01 xe môtô hiệu Honda Airblade màu đen biển số: 54X9-5471, có số máy: JF27E0005505 và số khung: RLHJF1801AY005059 là công cụ, phương tiện được sử dụng vào thực hiện tội phạm.
Bị cáo không gửi bài bào chữa cho mình và cũng không yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu khác ngoài những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ của vụ án ra xem xét tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa:
Trong quá trình điều tra, truy tố thì Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bị cáo cũng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên nên các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đều hợp pháp, đúng theo quy định của pháp luật.
[2]. Về sự vắng mặt của bị cáo tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Văn L đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, không tham gia phiên tòa được vì ảnh hưởng của dịch Covid 19. Đây là sự tự nguyện của bị cáo và không trái với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự để tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.
[3]. Về hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo:
Vào ngày 28/01/2021, Nguyễn Văn L đã có hành vi mua 4.500.000đ (bốn triệu, năm trăm nghìn đồng) tiền giả loại mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) với giá 2.200.000đ (hai triệu, hai trăm nghìn đồng) tại khu vực cổng Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai thuộc khu phố 3, phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa của 01 người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Sau đó, vào các ngày 31/01/2021 và 01/02/2021, L đã 02 lần sử dụng 02 tờ tiền giả loại mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để thanh toán tiền mua thức ăn được đặt qua ứng dụng “Now” của Công ty cổ phần Foody.
Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can thì bị cáo Nguyễn Văn L đều đã khai nhận hành vi thực hiện tội phạm của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thể hiện tại hồ sơ vụ án và phù hợp với những nội dung mà bản Cáo trạng đã viện dẫn và truy tố.
Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả” được quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý tiền tệ; làm mất an ninh, trật tự tại địa phương.
[4]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo đã 02 lần có hành vi lưu hành tiền giả nên bị cáo còn phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6]. Về quyết định hình phạt:
Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo; căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì cần có mức án nghiêm, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đối với mới thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[7]. Về các nội dung khác có liên quan đến vụ án:
- Đối với đối tượng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đã bán tiền giả cho bị cáo;
Nguyễn Thị Thúy D và Trịnh Thị Thu H đã có hành vi tàng trữ tiền giả, hiện Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đang tiếp tục điều tra xác minh, làm rõ và sẽ xử lý sau.
- Đối với Lương Văn K, theo Kết quả giám định pháp y tâm thần số: 285/KL- VPYTW ngày 28/4/2021 của Viện Pháp y tâm thần Trung ương Biên Hòa, Bộ Y tế xác định: “Tại thời điểm gây án và hiện nay đương sự mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi” nên K không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đã thực hiện.
- Đối với 02 tờ tiền giả loại mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) là vật chứng của vụ án, cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S A1601 có sim số: 0366729147; 01 xe môtô hiệu Honda Airblade màu đen biển số: 54X9-5471, có số máy: JF27E0005505 và số khung: RLHJF1801AY005059 của Nguyễn Văn L là công cụ, phương tiện được bị cáo sử dụng vào thực hiện tội phạm; cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
- Đối với trách nhiệm dân sự: anh Lê Văn Th và anh Nguyễn Văn M đã được bị cáo bồi thường thiệt hại và không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[8]. Về tiền án phí: bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[9]. Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”.
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 207; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt: Nguyễn Văn L 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 02 tháng 02 năm 2021.
2. Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) tờ tiền giả loại mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) có số seri: EJ18100627 và 01 (một) tờ tiền giả loại mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) có số seri: NZ18100686.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo F1S A1601 có sim số: 0366729147; 01 (một) xe môtô hiệu Honda Airblade màu đen, biển số: 54X9-5471, có số máy: JF27E0005505 và số khung: RLHJF1801AY005059.
(Tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23 tháng 07 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).
- Án phí Hình sự sơ thẩm: bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
3. Bị cáo Nguyễn Văn L, anh Lê Văn Th và anh Nguyễn Văn M vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ
Bản án về tội tàng trữ, lưu hành tiền giả số 422/2021/HS-ST
Số hiệu: | 422/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về