Bản án về tội tàng trữ, lưu hành tiền giả số 54/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 54/2021/HS-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ

Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2021/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Ngọc H; sinh năm 1996; tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn P, xã H, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Tự do; con ông Lê Ngọc S, sinh năm 1974 và bà Lê Thi H, sinh năm 1975; Gia đình có 02 anh em, bị can là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa có; Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/01/2021 đến ngày 08/3/2021 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn: Bảo lĩnh. Hiện đang tại ngoại. (Có mặt).

*Người làm chứng:

1. Nguyễn Văn T, sinh năm 1996. Vắng mặt.

2. Vũ Thị N, sinh năm 1995. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Xóm 16, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 3 năm 2020, Lê Ngọc H trong quá trình đăng nhập, sử dụng mạng xã hội Facebook, H thấy trên bảng tin facebook cá nhân “Thắng Lê” của mình xuất hiện bài viết quảng cáo, rao bán tiền giả của tài khoản facebook “Song Long Tài Chính” do Nguyễn Văn T và Vũ Thị N quản lý, sử dụng. H đã nảy sinh ý định mua tiền giả về để tiêu sài cá nhân. H sử dụng tài khoản facebook “Thắng Lê” chủ động nhắn tin qua ứng dụng Messenger với tài khoản facebook “Song Long Tài Chính” để hỏi mua tiền giả. Quá trình nhắn tin, trao đổi, T, N báo cho H biết loại tiền giả mệnh giá 500.000 đồng được bán với tỉ lệ 1:6 (Một triệu đồng tiền thật mua được 6.000.000 đồng tiền giả). Hình thức giao nhận tiền giả thông qua dịch vụ giao hàng và thu hộ (COD) của Bưu điện. H không cần đặt cọc trước nhưng cũng không được kiểm tra hàng trước khi thanh toán. Sau đó, T, N gửi cho H video chỉ dẫn chỗ giấu tiền giả trong bưu kiện. H đồng ý và cung cấp thông tin người nhận tiền giả là: Thắng Lê, địa chỉ: Thôn Phù Quang, xã Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, SĐT: 0387090687. Ngày 28/3/2020, H nhận được bưu kiện có mã vận đơn EC427456713VN và thanh toán 1.040.000 đồng (gồm 1.000.000 đồng để mua tiền giả và 40.000 đồng tiền phí vận chuyển) cho anh Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1986 là bưu tá thuộc Bưu điện xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa. Sau khi nhận được bưu kiện H mở và thấy bên trong có 01 lọ mực và 12 tờ tiền giả, loại mệnh giá 500.000 đồng được cất giấu tại vị trí như T, N đã chỉ dẫn. Kiểm tra, H thấy các tờ tiền giả dày, cứng có màu sắc đậm hơn nhiều so với tờ tiền thật, H mang số tiền giả mua được về nhà, cất giấu dưới chiếu giường trong phòng ngủ tại nhà ở, sau đó H chụp ảnh tờ tiền giả mua được và vờ tiền thật gửi cho T và N mục đích phản ánh chất lượng tiền giả kém, không giống như quảng cáo, muốn trả lại tiền giả đã mua nhưng không được T và N đồng ý. Ngày hôm sau, do thấy số tiền giả mua được không thể đem đi lưu hành được và lo sợ sẽ bị phát hiện nên H đã mang toàn bộ số tiền giả đốt tiêu hủy.

Trong vụ án này còn liên quan đến các đối tượng T, P, N và một số đối tượng khác đã được xét xử trong vụ án khác.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Lê Ngọc H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 28/CT-VKS-P1 ngày 29-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định truy tố Lê Ngọc H về tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả” theo quy định tại khoản 2 Điều 207 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Sau đây viết tắt là BLHS).

Tại phiên toà: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định luận tội: Giữ nguyên nội dung cáo trạng và quyết định đã truy tố. Sau khi xem xét đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Ngọc H phạm tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”; áp dụng khoản 2 Điều 207; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Ngọc H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm và đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó có căn cứ xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ căn cứ kết luận: Tháng 3/2020 Lê Ngọc H có hành vi mua của Nguyễn Văn T, Vũ Thị N 6.000.000 đồng tiền giả loại mệnh giá 500.000 đồng, sau đó mang về nhà cất giấu mục đích để tiêu sài cá nhân nhưng do chất lượng tiền giả kém nên bị cáo đã đốt hết số tiền giả đã mua. Lê Ngọc H đã giao dịch mua tiền giả với T và N nên giữ vai trò đồng phạm với Nguyễn Văn T, Vũ Thị N trong hành vi lưu hành tiền giả.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 207 BLHS. Nên, quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý tài chính, tiền tệ của Nhà nước, gây T hại lớn đến việc lưu thông tiền tệ trong thị trường, gây bất ổn cho nền kinh tế và gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi của mình là sai trái nhưng vì hám lợi đã cố ý phạm tội, với số tiền giả có giá trị thực tế là 6.000.000 đồng. Do vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo; nhằm mục đích trừng trị, cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngày 11/5/2021 Cơ quan an ninh điều tra – Công an tỉnh Nam Định có Công văn số 215/CV-ANĐT xác nhận bị cáo H đã có công trong việc cung cấp nhiều thông tin, tài liệu về các đối tượng liên quan đến hành vi tàng trữ, lưu hành tiền giả nên Lê Ngọc H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 của BLHS. Bản thân bị cáo Lê Ngọc H đã có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự; gia đình bị cáo thuộc diện gia đình khó khăn tại địa phương nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Do bị cáo Lê Ngọc H được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên căn cứ theo Điều 54 BLHS bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Mặt khác, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt; lần đầu bị cáo phạm tội nên nhận thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo. Đồng thời cũng thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

[4] Hình phạt bổ sung: Do khi nhận được tiền giả có chất lượng không tốt nên bị cáo đã đem đi đốt hết, bị cáo cũng chưa hưởng lợi gì từ số tiền giả đã mua nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 2 Điều 207, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc H phạm tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”;

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc H 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. (Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20/01/2021 đến ngày 08/3/2021).

Giao bị cáo Lê Ngọc H cho UBND xã H, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách;

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án Hình sự 2019. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, lưu hành tiền giả số 54/2021/HS-ST

Số hiệu:54/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về