Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 59/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 59/2023/HS-ST NGÀY 22/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 22 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 48/2023/TLST- HS ngày 14 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/ QĐXXST - HS ngày 10/5/2023, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lưu Xuân T; Sinh ngày 19 tháng 4 năm 1992, tại tỉnh T. Giới tính Nam; Nơi cư trú: Thôn N, tỉnh Q. Dân tộc: Cao lan; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Họ tên bố: Lưu Văn D, sinh năm 1964; Họ tên mẹ: Hoàng Thị Đ, sinh năm 1962; Vợ: Lưu Thị Y, sinh năm 1995; Con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2020;

- Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

* Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại giam Công an thành phố T. Có mặt

2. Họ và tên: Phan Trọng Th; Sinh ngày 02 tháng 01 năm 2002, tại tỉnh T. Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Thôn…………….; Dân tộc: Cao lan; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên bố: Phan Văn Ch, sinh năm 1982; Họ tên mẹ: Lý Thị Th, sinh năm 1985; Vợ, con: Chưa có;

- Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

* Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại giam Công an thành phố T. Có mặt Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Đỗ Thành L, sinh năm 1998; nơi cư trú: Thôn ............ Vắng mặt Người làm chứng:

1/ Nguyễn Hữu A, sinh năm 1987; nơi cư trú: Tổ dân phố ................

2/ Đỗ Thị L, sinh năm 1968; nơi cư trú: Thôn 12, .................. Vắng mặt.

3/ Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 2001; nơi cư trú: ................ Vắng mặt.

4/ Chị Nông Hải Y, sinh năm 2004; nơi cư trú. Thôn 24, .....................

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng đầu tháng 01/2023, do sắp đến tết Nguyên Đán Quý Mão năm 2023, Lưu Xuân T, nảy sinh ý định mua pháo hoa nổ do Trung Quốc sản xuất về đốt trong dịp tết Nguyên Đán nên T rủ và Phan Trọng Th (trú cùng địa chỉ và đang làm với T tại T.P Hà Nội) góp chung tiền mua pháo, Th đồng ý, thống nhất mỗi người góp 1.800.000 đồng. Th đưa trước cho T 1.000.000 đồng, sau đó ngày 17/01/2023, Th đưa tiếp cho T 800.000 đồng, cả hai góp được tổng 3.600.000 đồng. T sử dụng số điện thoại 0972.366.xxx và tài khoản zalo “Lưu Bảo H” (tài khoản zalo và số điện thoại của T) liên hệ với một người đàn ông tên L (theo T khai là Đỗ Thành L, cư trú tại thôn 12, xã N ........) qua số điện thoại 0392.959.xxx và tài khoản zalo “ZinZinzz” (tài khoản zalo và số điện thoại của Luân) đặt mua pháo. Sau đó T nhờ người cùng làm thợ sơn với T là Hoàng Hữu QA, trú tại tổ dân phố ............... chuyển khoản số tiền 400.000 đồng đến số tài khoản 21062020201098 mở tại ngân hàng Quân Đội MB của người tên Đỗ Thành L, trú tại xã N …………. để đặt cọc trước.

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 18/01/2023, sau khi từ thành phố Hà Nội về tỉnh Q để nghỉ lễ dịp tết Nguyên Đán, T khai điều khiển xe mô tô biển số 22B2- xxx đến đón Th, sau đó Th điều khiển xe chở T từ xã HN………đến quán nước tại khu vực ……….. gặp người tên L, T vào quán nước đưa cho L số tiền còn lại là 3.200.000 đồng. Khoảng 05 phút sau có một người đàn ông điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ cam (không xác định được biển số, người điều khiển) đến, Luân bảo cả hai đi theo người này, sau đó Th điều khiển xe mô tô chở T đi theo người đàn ông này, người đàn ông chỉ cho T và Th vị trí để pháo tại khu vực sau cây cột điện rồi điều khiển xe mô tô đi, Th và T đến thì thấy có 01 túi nilon màu đen, bên trong có 05 hộp pháo hoa nổ, T cầm và ôm phía sau xe, T điều khiển xe mô tô chở T đi về, khi đến ngõ 25, ……. thì bị tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T bắt quả tang hồi 19 giờ 30 phút cùng ngày.

Kết luận giám định số 214/KL-KTHS ngày 26/01/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh T kết luận: Mẫu vật gửi giám định là pháo nổ (pháo hoa nổ), khối lượng 08 kg (Tám kilogam).

Kết luận giám định số 323/GKL-KTHS ngày 22/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh T, kết luận: Không tìm thấy dữ liệu tin nhắn tin nhắn qua ứng dụng Zalo giữa tài khoản mang tên “Lưu Bảo H” đăng ký số điện thoại 0972366xxx với tài khoản Zalo mang tên “ZinZinzz” trong mẫu cần giám định, thời gian từ ngày 01/01/2023 đến ngày 18/01/2023.

Vật chứng: Ngày 18/01/2023, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 thùng catton dán kín, bên ngoài có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và hình dấu tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, bên trong có 7,607kg pháo hoa nổ (số còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định, hiện đang tạm gửi tại kho của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh T);

Tạm giữ của Lưu Xuân T 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng xanh dương, biển số 22B2 - xxx; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; 01 điện thoại di động iPhone 6S màu vàng, bên trong có gắn sim số 0972.366.xxx. Tạm giữ của Phan Trọng Th: 01 điện thoại di động OPPO Realme C30s màu đen, bên trong có gắn sim số 0368.019.xxx.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKSTP ngày 14 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố các bị cáo Lưu Xuân T; Phan Trọng Th về tội Tàng trữ hàng cấm, theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lưu Xuân T; Phan Trọng Th phạm tội Tàng trữ hàng cấm.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c, khoản 1, Điều 191; điểm i, điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt các bị cáo Lưu Xuân T; Phan Trọng Th từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2023.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Đối với 01 thùng catton dán kín, bên ngoài có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và hình dấu tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, bên trong có 7,607kg pháo hoa nổ (số còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định) là hàng hóa cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động iPhone 6S màu vàng, bên trong có gắn sim số 0972.366.xxx là tài sản thu giữ của Lưu Xuân T, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước, đối với 01 sim số 0972.366.xxx không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng xanh dương, biển số 22B2 - xxx kèm theo 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Lưu Xuân T, thường sử dụng làm phương tiện đi lại nên cần tuyên trả cho bị cáo Lưu Xuân T.

Đối với 01 điện thoại di động OPPO Realme C30s màu đen, bên trong có gắn sim số 0368.019.xxx thu giữ của Phan Trọng Th, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Quá trình điều tra, Lưu Xuân T khai nhận: Đỗ Thành L, sinh năm 1998, cư trú tại ......................... là người bán pháo hoa nổ cho T vào ngày 18/01/2023. Quá trình điều tra xác định L sử dụng số điện thoại 0392.959.xxx nhưng không đăng ký tên chính chủ, ngày mùng 2 tết Nguyên Đán Quý Mão, L bị rơi mất điện thoại và sim. L khai nhận không sử dụng tài khoản zalo “ZinZinzz”. Trong khoảng thời gian từ 17 giờ đến 20 giờ ngày 18/01/2023, L ở nhà tại thôn ...... ăn cơm tất niên cùng mẹ là Đỗ Thị L, trú cùng thôn; Nông Hải Y, trú tại thôn ...... và Nguyễn Anh T, trú tại thôn ....... đến khoảng 20 giờ cùng ngày, sau đó, do say rượu nên L ngủ tại nhà đến sáng hôm sau. Ngoài ra, quá trình điều tra xác định trong tài khoản số 21062020201098 của Đỗ Thành L mở tại ngân hàng MB có nhận số tiền 400.000 đồng do Hoàng Hữu A chuyển khoản đến ngày 17/01/2023 (theo T khai là tiền T đặt cọc mua pháo). Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định giữa T và L có mối quan hệ quan biết, có vay mượn tiền nhau từ trước. L, T thường xuyên gọi điện thoại trao đổi với nhau, kết quả điều tra không đủ căn cứ chứng minh số tiền 400.000 đồng là tiền T chuyển khoản cho L để đặt cọc mua pháo. Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra nhưng không đủ căn cứ xác định Đỗ Thành L là người bán pháo cho T nên không có căn cứ để xử lý đối với L về tội Buôn bán hàng cấm, quy định tai Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra, T khai L còn sử dụng số điện thoại 0393.693.xxx nói chuyện với T về việc có pháo hoa Trung Quốc bán, sau đó L liên lạc lại với T bằng số điện thoại 0392.959.xxx để bán pháo. Kết quả điều tra đối với số điện thoại 0393.693.xxx, xác định đăng ký thông tin thuê bao Đỗ Thị Kim Th, sinh năm 1983, trú tại số nhà 40, ngách 65/42 Yên Lộ, ………, thành phố N; số điện thoại 0392.959.xxx xác định đăng ký thông tin thuê bao Hoàng Văn H, sinh năm 1998, trú tại thôn 6, ………... Quá trình điều tra H, Th khai không đăng ký sử dụng số thuê bao này, không bán pháo cho T, Th nên không đề cập xử lý.

Đối với người đàn ông mà T, Th khai điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ cam chỉ vị trí cất pháo cho T, Th, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với Hoàng Hữu A, cư trú tại tổ dân phố .................. chuyển tiền giúp T cho người tên L nhưng không biết T chuyển tiền với mục đích gì nên không đề cập xử lý.

Ngoài ra, kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 4, Điều 191 Bộ luật hình sự; tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, các bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; Các bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt quả tang; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 19 giờ 30 phút ngày 18/01/2023, tại ngõ 25, ……….Lưu Xuân T và Phan Trọng Th, cùng cư trú tại thôn Yên Thái, Q, đã có hành vi Tàng trữ 08 kg (Tám kilogam) pháo nổ (pháo hoa nổ), mục đích để sử dụng.

[3] Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, có khả năng nhận biết và điều chỉnh năng lực hành vi của mình, bản thân các bị cáo biết Pháo nổ là loại hàng hóa nhà nước cấm lưu hành, mọi hành vi tàng trữ trái phép pháo nổ sẽ bị trừng trị một cách thích đáng nhưng vì mục đích mua về để sử dụng nên bị cáo đã đặt mua 05 hộp pháo hoa nổ về để đốt trong dịp tết nguyên đán Quý Mão năm 2023, sau khi mua được pháo, trên đường về nhà thì các bị cáo bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi của các bị cáo là trái pháp luật, đã Xâm phạm lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, vi phạm các quy định của nhà nước ta về việc cấm vận chuyển pháo hoa nổ, vì pháo nổ là một loại hàng hóa nguy hiểm, việc vận chuyển pháo nổ tiềm ẩn nhiều nguy cơ nếu sơ suất có thể làm nổ một lượng lớn thuốc pháo gây thương tích lớn cho bản thân người đốt và nhiều người xung quanh. Đặc biệt trong dịp trước tết nguyên đán Quý Mão, các cơ quan chức năng đều tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt quy định của pháp luật để đón tết cổ truyền dân tộc một cách an toàn, lành mạnh thì các bị cáo lại mua pháo hoa nổ về để sử dụng, hành vi này của các bị cáo góp phần gây nên tình trạng mất an ninh trật tự trên địa bàn thành phố T.

Trong vụ án này các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành. Bị cáo T là người khởi xướng việc mua pháo sau đó rủ bị cáo Th góp tiền mua. Bị cáo Th là người góp tiền cùng T, sau đó điều khiển phương tiện xe mô tô biển số 22B2-xxx trên đường đi làm từ Hà Nội về, xe của bị cáo T để chở T đi nhận pháo sau đó bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ. Xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo là ngang nhau, do vậy, hành vi của các bị cáo cần phải được nghiêm trị, cần có một mức án phù hợp, nghiêm khắc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời mới có tác dụng giáo dục phòng ngừa chung trong toàn xã hội và thể thiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”; “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, quy định tại các điểm i, điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Tàng trữ hàng cấm không nhằm mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự.

[7] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị, Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp, có cơ sở để chấp nhận.

[8] Quá trình điều tra, Lưu Xuân T khai nhận: Đỗ Thành L, sinh năm 1998, cư trú tại thôn 12, ..........là người bán pháo hoa nổ cho T vào ngày 18/01/2023. Quá trình điều tra xác định L sử dụng số điện thoại 0392.959.xxx nhưng không đăng ký tên chính chủ, ngày mùng 2 tết Nguyên Đán Quý Mão, L bị rơi mất điện thoại và sim. L khai nhận không sử dụng tài khoản zalo “ZinZinzz”. Trong khoảng thời gian từ 17 giờ đến 20 giờ ngày 18/01/2023, L ở nhà tại thôn 12, xã Trung Môn, Q ăn cơm tất niên cùng mẹ là Đỗ Thị L, trú cùng thôn; Nông Hải Y, trú tại thôn 24, ........ và Nguyễn Anh T, trú tại thôn 7, ......... đến khoảng 20 giờ cùng ngày, sau đó, do say rượu nên L ngủ tại nhà đến sáng hôm sau. Ngoài ra, quá trình điều tra xác định trong tài khoản số 21062020201098 của Đỗ Thành L mở tại ngân hàng MB có nhận số tiền 400.000 đồng do Hoàng Hữu A chuyển khoản đến ngày 17/01/2023 (theo T khai là tiền T đặt cọc mua pháo). Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định giữa T và L có mối quan hệ quan biết, có vay mượn tiền nhau từ trước. L, T thường xuyên gọi điện thoại trao đổi với nhau, kết quả điều tra không đủ căn cứ chứng minh số tiền 400.000 đồng là tiền T chuyển khoản cho L để đặt cọc mua pháo. Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra nhưng không đủ căn cứ xác định Đỗ Thành L là người bán pháo cho T nên không có căn cứ để xử lý đối với L về tội Buôn bán hàng cấm, quy định tai Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra, T khai L còn sử dụng số điện thoại 0393.693.xxx nói chuyện với T về việc có pháo hoa Trung Quốc bán, sau đó L liên lạc lại với T bằng số điện thoại 0392.959.xxx để bán pháo. Kết quả điều tra đối với số điện thoại 0393.693.xxx, xác định đăng ký thông tin thuê bao Đỗ Thị Kim Th, sinh năm 1983, trú tại số nhà 40, ngách 65/42 Yên Lộ, phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; số điện thoại 0392.959.xxx xác định đăng ký thông tin thuê bao Hoàng Văn H, sinh năm 1998, trú tại thôn 6, xã Đăk Drông, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Quá trình điều tra H, Th khai không đăng ký sử dụng số thuê bao này, không bán pháo cho T, Thanh nên không đề cập xử lý.

Đối với người đàn ông mà T, Th khai điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ cam chỉ vị trí cất pháo cho T, Th, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với Hoàng Hữu A, cư trú tại tổ dân phố .................. chuyển tiền giúp T cho người tên L nhưng không biết T chuyển tiền với mục đích gì nên không đề cập xử lý.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) hộp pháo nổ đều có kích thước (15x15x12,5), bên ngoài có in hình pháo hoa, số và chữ nước ngoài, có tổng khối lượng là 08kg (tám kilogam). Sau khi giám định còn lại 7,607kg (bảy phẩy sáu trăm linh bẩy kilogam), được niêm phong theo quy định và 01 (một) sim số 0972.366.xxx.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước đối với 01 điện thoại di động iPhone 6S màu vàng, là tài sản thu giữ của Lưu Xuân T, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

- Trả lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng xanh dương, biển số 22B2 - xxx kèm theo 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Lưu Xuân T, do bị cáo thường sử dụng làm phương tiện đi lại cho bị cáo Lưu Xuân T.

- Trả lại 01 (một) điện thoại di động OPPO Realme C30s màu đen, bên trong có gắn sim số 0368.019.xxx thu giữ của Phan Trọng Th, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Phan trọng Th.

[10] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Các Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ: điểm c khoản 1, Điều 191 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Lưu Xuân T; Phan Trọng Th phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Căn cứ: điểm c khoản 1, Điều 191; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17;

Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Lưu Xuân T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 18/01/2023.

- Xử phạt: Bị cáo Phan Trọng Th 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 18/01/2023.

2. Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 05 (năm) hộp pháo nổ đều có kích thước (15x15x12,5), bên ngoài có in hình pháo hoa, số và chữ nước ngoài, có tổng khối lượng là 08kg (tám kilogam). Sau khi giám định còn lại 7,607kg (bảy phẩy sáu trăm linh bẩy kilogam), được niêm phong theo quy định và 01 (một) sim số 0972.366.xxx của Lưu Xuân T - Tịch thu sung quỹ nhà nước đối với 01 điện thoại di động iPhone 6S màu vàng, là tài sản thu giữ của Lưu Xuân T.

- Trả lại bị cáo Lưu Xuân T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng xanh dương, biển số 22B2 - xxx kèm theo 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Lưu Xuân T.

- Trả lại bị cáo Phan Trọng Th 01 (một) điện thoại di động OPPO Realme C30s màu đen, bên trong có gắn sim số 0368.019.xxx.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố T và Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 10/5/2023).

3. Căn cứ các Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Bị cáo Lưu Xuân T; Phan Trọng Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo Lưu Xuân T; Phan Trọng Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 59/2023/HS-ST

Số hiệu:59/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về