Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 56/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 56/2021/HS-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại phòng xử án trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân Đ (tên gọi khác: không); sinh năm: 1979 tại huyện Q, tỉnh N; nơi cư trú: xóm Đông Hồng, xã C, huyện QL, tỉnh N; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Th và bà: Phan Thị H; vợ, con: Trần Thị Th1 và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ: từ ngày 14/01/2021 đến ngày 22/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: anh Nhữ Anh T, sinh năm 1975. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 21h 45 phút ngày 13/01/2021 tổ công tác Công an huyện Q tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn xã Quỳnh Châu, huyện Q phát hiện Nguyễn Xuân Đ cùng một số người đánh tiến lên miền nam ăn tiền tại quán cà phê “Đ” thuộc xóm Đông Hồng do Đ làm chủ, thu giữ số tiền 2.900.000đ. Tiến hành khám xét nhà Đ thu giữ 15 khối hình hộp chữ nhật được bọc bằng giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài được bỏ trong 03 túi potylen màu đen để trên nóc nhà tầng 2. Quá trình điều tra Đ khai nhận 03 túi potylen màu đen bên trong chứa 15 khối hình hộp chữ nhật bị thu giữ là do người bạn tên T ở huyện Diễn Châu cho Đ vào đầu năm 2020, Đình cất dấu để Tết đưa ra nổ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng: 15 (mười lăm) khối hình hộp chữ nhật có tổng khối lượng 18,9kg (mười tám phẩy chín kilogam). Quyết định trưng cầu giám định 02 (hai) khối hình hộp chữ nhật ký hiệu M1, M2. Sau khi lấy mẫu vật gửi giám định, số pháo còn lại được niêm phong, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Q.

Tại Kết luận giám định số 122/KL-PC09(Đ2-CN), ngày 20/01/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: “Các mẫu vật (ký hiệu M1, M2, M3) gửi giám định đều là pháo, đều là loại pháo nổ.

Ngày 28/02/2021, Công an huyện Q xử phạt vi phạm hành chính Nguyễn Xuân Đ về hành vi đánh bạc với số tiền 1.500.000đ, đã nộp phạt ngày 12/3/2021.

Bản cáo trạng số 58/CT-VKS-QL ngày 08/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Đ về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1, 4 Điều 191; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Đ từ 13-15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 26-30 tháng.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền từ 10.000.000đ-12.000.000đ.

Vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bao bì xác rắn màu trắng được niêm phong bên trong chứa 10 khối hình hộp chữ nhật có tổng khối lượng 16,34kg, 03 (ba) túi potylen màu đen và vỏ giấy.

Án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không tranh luận gì về tội danh. Lời nói sau cùng: bị cáo đã biết lỗi xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân Đ khai nhận: Đầu năm 2020, một người bạn tên Tiến cho bị cáo 15 hộp pháo, bị cáo cất trên nóc tầng 2 nhà ở tại xóm Đông Hồng, xã C, huyện QL, tỉnh N để Tết đưa ra nổ, ngày 13/12/2020 bị tổ công tác Công an huyện Q bắt quả tang. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo không được nhà nước cho phép, nhận thức được pháo là loại hàng hóa bị cấm, hành vi cất dấu 18,9kg (mười tám phẩy chín kilogam) pháo để sử dụng là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý hàng hóa kinh doanh có điều kiện của Nhà nước, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng. Mặc dù, pháp luật nghiêm cấm, các cơ quan chức năng ra sức tuyên truyền nhằm ngăn chặn tội phạm về pháo nổ nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc truy tố và xét xử bị cáo là cần thiết và cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cũng cần xem xét bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong quá trình sinh sống tại địa phương có đóng góp ủng hộ lũ lụt miền trung, chống dịch Covid (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Quỳnh Châu), mẹ vợ (bà Hồ Thị Hồng V) là người có công được tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này, thì từ trước đến ngày phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú. Bị cáo có khả năng tự cải tạo, việc được ở ngoài xã hội không gây nguy hiểm hay ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, không cần thiết phải cách ly mà giao cho chính quyền địa phương cũng đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[4] Hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng...”. Bị cáo kinh doanh, có thu nhập nên áp dụng hình phạt tiền bổ sung khoảng 10.000.000đ là phù hợp.

[5] Xử lý vật chứng: Pháo thu giữ của bị cáo là loại hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh nên tịch thu, tiêu hủy. Túi potylen, vỏ giấy niêm phong ban đầu không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ hành vi của người đàn ông tên Tiến cho bị cáo pháo để xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1, 4 Điều 191; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Đ 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng, về tội “Tàng trữ hàng cấm”. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Xuân Đ cho Ủy ban nhân dân xã Quỳnh Châu, huyện Q, tỉnh N để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp cùng Ủy ban nhân dân xã và người được phân công trong việc giám sát, giáo dục người đó, thông báo kết quả chấp hành án của bị cáo với Ủy ban nhân dân xã khi có yêu cầu.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Hình phạt bổ sung: phạt tiền bị cáo Nguyễn Xuân Đ số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng).

2. Xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bao bì xác rắn màu trắng được niêm phong bên trong chứa 10 (mười) khối hình hộp chữ nhật có tổng khối lượng 16,34kg, 03 (ba) túi potylen màu đen và vỏ giấy (tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/3/2021 giữa Công an huyện Q và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q).

3. Án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Nguyễn Xuân Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 56/2021/HS-ST

Số hiệu:56/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về