Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 24/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2021/TLST- HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q, sinh năm 1981, tại H; nơi cư trú: Thôn Th, xã T, huyện K, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th1 và bà Phan Thị B; có vợ Phạm Thị Kim L, con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền sự, tiền án: Không. Tạm giữ ngày 16/12/2020; áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” ngày 21/12/2020. Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Ngô Văn A, sinh năm 1984; Anh Nguyễn Như Th2, sinh năm 1977. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ, ngày 16/12/2020, Nguyễn Văn Q sinh năm 1981 trú tại thôn Th, xã Tân Sơn, huyện K, tỉnh H vào mạng xã hội Facebook thì thấy có một tài khoản Facebook (không nhớ rõ tên) đăng bán pháo nổ nên Q nhắn tin đặt mua với nội dung: "Bán cho tôi năm bệ pháo nổ về chơi tết", tài khoản Facebook nhắn lại: "Anh cho em địa chỉ, số điện thoại, giá sáu trăm nghìn đồng một bệ". Q vào nhắn tin: "Giao đến Tân Sơn, K, H, số điện thoại 0973533xxx". Tài khoản Facebook nhắn tin lại: "Khoảng 17 giờ 30 phút, tôi từ Nam Định lên xã Nh có việc, xong tôi ở đâu ông ra lấy nhé". Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, có số điện thoại lạ gọi cho Q nói: "Tôi giao pháo, ông ra khu vực ngã tư chợ chiều Nh lấy hàng nhé". Q nói: "Thế đợi tôi ra". Lúc này, ở nhà Q có Ngô Văn A, sinh năm 1984 ở cùng thôn đang ở ngồi chơi. Q nói với Ngô Văn A: "Đi Nhật Tân với anh có tý việc", Văn A đồng ý và nói: "Vâng". Q điều khiển xe mô BKS 90H5-xxxx chở Ngô Văn A đi từ nhà Q đến ngã tư chợ chiều thì gặp một nam thanh niên không quen biết. Nam thanh niên nói với Q: "Hàng để trong này, đi vào đây". Q nói với Văn A: "Đợi anh ở đây". Văn A xuống xe, Q điều khiển xe đi theo nam thanh niên khoảng 100 mét vào một ngõ nhỏ, nam thanh niên mở 01 thùng catton có 05 hộp pháo nổ như Q đã đặt mua và nói: "Hàng của anh đây". Q kiểm tra và nói: "Tôi gửi tiền". Nam thanh niên nói: "Tôi bớt anh một trăm, của anh hết 2.900.000đồng". Q lấy ra 2.900.000đồng đưa cho nam thanh niên, nam thanh niên cầm tiền và rời đi. Q bê thùng catton lên yên xe mô tô BKS 90H5-xxxx mang về thì bị Công an huyện K phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ trên xe mô tô BKS 90H5-xxxx do Q điều khiển 01 thùng catton bên trong chứa 05 hộp đều có kích thước (14x15x16) cm, bên ngoài 05 hộp đều dán giấy vàng đỏ có in chữ nước ngoài được niêm phong trong thùng catton kí hiệu QT01. Thu trong túi quần bên phải phía trước của Nguyễn Văn Q 01 điện thoại di động màu trắng bạc màn hình cảm ứng nhãn hiệu OPPO được niêm phong ký hiệu QT02 và số tiền 4.500.000đồng niêm phong kí hiệu QT03. Tạm giữ của Nguyễn Văn Q 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu BKS 90H5-xxxx. Khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn Q tại thôn Th, xã T, huyện K, tỉnh H không thu giữ tài liệu, đồ vật gì.

Tại bản kết luận giám định số 1313/KTHS ngày 18 tháng 12 năm 2020 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu kí hiệu QT01 là pháo, có đặc tính pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), tổng khối lượng là 7,049 kg.

Về nguồn gốc số pháo nổ thu giữ: Nguyễn Văn Q khai nhận mua của một nam thanh niên không quen biết ở khu vực ngã tư chợ chiều thuộc xã Nhật Tân, huyện K, tỉnh H. Bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng của nam thanh niên nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K không có căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với anh Ngô Văn A là người đi cùng Nguyễn Văn Q đến chỗ mua pháo nhưng Anh không biết Q rủ đi mua pháo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K không xử lý anh Ngô Văn A là phù hợp.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSKB ngày 19/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh H đã truy tố Nguyễn Văn Q về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191;

điểm i điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn Q từ 12 tháng đến 18 tháng tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy một thùng catton niêm phong nguyên vẹn ký hiệu QT01. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng bạc, đã qua sử dụng; một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda màu nâu, BKS 90H5-xxxx, xe đã qua sử dụng, trả lại cho bị cáo Q số tiền 4.500.000đồng. Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo không tranh luận gì và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện K trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, biên bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, người làm chứng, bản kết luận giám định về thời gian, địa điểm cùng toàn bộ các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại thôn 6, xã Nh, huyện K, tỉnh H, cơ quan điều tra công an huyện K đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn Q, sinh năm 1981, trú tại thôn Th, xã T, huyện K, tỉnh H cất giấu trái phép 7,049kg pháo nổ ở trên yên xe mô tô BKS 90H5-xxxx mục đích để sử dụng. Hành vi đó của bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ hàng cấm". Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất kinh doanh một số loại hàng cấm, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội.

[4] Xét về mặt chủ quan của tội phạm, bị cáo thực hiện do lỗi cố ý, nhận thức rõ hành vi cất giữ 7,049 kilôgam pháo nổ của mình, mục đích để sử dụng nhưng không có giấy phép hợp lệ là trái pháp luật vì pháo nổ là một trong các loại hàng hóa Nhà nước không cho phép lưu thông trên thị trường mà vẫn thực hiện.

[5] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng thành khẩn khai báo. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tình tiết tăng nặng bị cáo không phải chịu. Ngoài ra bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng treo và ấn định thời gian thử thách như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo lời khai của bị cáo tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ xác minh thì bị cáo là lao động tự do, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số pháo nổ: Nguyễn Văn Q khai nhận mua của một nam thanh niên không quen biết ở khu vực ngã tư chợ chiều thuộc xã Nh, huyện K, tỉnh H. Bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng của nam thanh niên đó nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với anh Ngô Văn A là người đi cùng Nguyễn Văn Q đến chỗ mua pháo nhưng Anh không biết Q rủ đi mua pháo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K không xử lý Ngô Văn A về tội "Tàng trữ hàng cấm" là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: Gồm một thùng catton niêm phong nguyên vẹn ký hiệu QT01 là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. Đối với một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng bạc bị cáo dùng để liên lạc mua pháo nổ; chiếc xe nhãn hiệu Honda màu nâu, biển số 90H5-xxxx là tài sản của bị cáo không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, là phương tiện phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước; đối với số tiền 4.500.000đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo không phải là vật chứng nên trả lại cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật theo quy định Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 50; điểm i điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn Q 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn Q cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự 2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy một thùng catton niêm phong nguyên vẹn ký hiệu QT01. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng bạc, đã qua sử dụng; một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda màu nâu, BKS 90H5-xxxx, xe cũ đã qua sử dụng. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Q số tiền 4.500.000đồng. (Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản bàn giao giữa cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K và Ủy nhiệm chi ngày 19/02/2021).

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 24/2021/HS-ST

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về