Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 137/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 137/2023/HS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 20/12/2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số 150/2023/TLST-HS ngày 08/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2023/QĐXXST-HS ngày 13/12/2023 đối với bị cáo:

Đồng Văn Q sinh ngày 12/3/1988 tại Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đồng Văn T và bà Ngô Thị N; có vợ Đỗ Minh T và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 14/11/2023 đến ngày 16/11/2023 áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu mua pháo về đốt Tết nên Đồng Văn Q đã lên mạng xã hội Facebook đặt mua 02 lần, một lần mua 05 dải pháo nổ (mỗi dải dài khoảng 01m gồm các quả pháo hình trụ tròn đường kính 2,5cm, cao 5cm, vỏ ngoài bằng giấy, màu đỏ, một đầu bịt kín bằng bê tông, một đầu gắn dây dẫn cháy được liên kết với nhau bằng dải) giá 1.500.000 đồng, một lần mua 01 hộp pháo nổ (hình hộp kích thước 16,5x16,5x10 cm) giá 400.000 đồng. Sau khi mua được, Q cất ở cửa hàng cắt tóc của Q ở thôn Đình Ngọ 2, xã Hồng Phong, huyện A. Khoảng hơn 11 giờ ngày 14/11/2023, Q dựng xe máy nhãn hiệu Yamaha loại Exciter, màu xanh, BKS 34B2-xxxxx trước cửa quán cắt tóc, bê 01 thùng carton kích thước 30x30x30 cm, bên trong có chứa 05 dải pháo nổ, qua giám định là pháo nổ, khối lượng 5,67kg cho vào võng xe, chuẩn bị chở về nhà ở tỉnh Hải Dương cất giấu thì bị Công an huyện A kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, chị Đỗ Minh T (vợ Q) còn giao nộp 01 hộp pháo nổ hình hộp bọc trong bao nilon màu đỏ, qua giám định là pháo hoa nổ, khối lượng 1,59kg để trên ghế ngồi trong quán. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ số pháo trên, 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu xanh, BKS: 34B2-xxxxx và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, màu xanh. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Q tại tỉnh Hải Dương thu giữ tại nóc tủ quần áo trong phòng ngủ tầng 1 có 13 quả pháo hình trụ tròn, màu hồng, kích thước 50x03cm có gắn dây cháy chậm, qua giám định là pháo nổ, khối lượng 0,23kg; Q khai đây một số quả pháo lẻ thuộc dải pháo nổ bị tuột ra khỏi dải băng nên đã bỏ ra túi nilon, sau đó mang về nhà cất ở trên nóc tủ quần áo trong phòng ngủ. Q không nhớ thông tin người bán pháo cũng như người giao hàng. Tổng khối lượng pháo nổ thu giữ của Đồng Văn Q là 7,49kg.

Kết luận giám định số 101 ngày 16/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, kết luận: Mẫu gửi giám định 01 có tổng khối lượng 5,67kg là pháo nổ. Khi đốt hoặc kích thích pháo gây tiếng nổ và nổ liên tiếp. Mẫu gửi giám định 02 có tổng khối lượng 1,59kg là pháo hoa nổ. Khi đốt hoặc kích thích, pháo trong các khối bay lên cao liên tiếp, gây tiếng rít, tiếng nổ và hiệu ứng sắc màu trong không gian. Mẫu gửi giám định 03 có tổng khối lượng 0,23kg là pháo nổ. Khi đốt hoặc kích thích pháo gây tiếng nổ.

Tại cơ quan điều tra bị cáo khai nhận thống nhất về hành vi như đã nêu trên. Vật chứng của vụ án gồm: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu xanh, BKS: 34B2-xxxxx, số khung: 10DY223420, số máy: 55P1223430. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, màu xanh, số Imei 1: 866638041267915, số Imei 2: 866638043067919 kèm sim số điện thoại: 098902xxxx, 098620xxxx. 4,51 kg pháo nổ hoàn lại sau khi giám định chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện A để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo trình bày thống nhất về hành vi như đã nêu trên, đồng ý với nội dung Kết luận giám định. Bị cáo đề nghị được trả lại chiếc xe máy vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKS ngày 08/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A truy tố bị cáo Đồng Văn Q về tội Tàng trữ hàng cấm theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự (BLHS). Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số pháo nổ hoàn lại sau giám định; tịch thu phát mại nộp sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh kèm sim số điện thoại 098902xxxx và 098620xxxx; trả lại cho bị cáo 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh BKS 34B2-xxxxx; bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Vụ án đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn nên Tòa án áp dụng các điều 456, 457 và 462 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xét xử theo thủ tục rút gọn.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong quá trình tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, của người được giao thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với vụ án trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì nên các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Ngày 14/11/2023, tại thôn Đình Ngọ 2, xã Hồng Phong, huyện A, Đồng Văn Q có hành vi tàng trữ 7,49kg pháo nổ nhằm mục đích sử dụng là phạm tội Tàng trữ hàng cấm quy định tại Điều 191 của BLHS. Tổng khối lượng pháo thu giữ là 7,49kg nên bị cáo vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của BLHS. Các chứng cứ xác định bị cáo không có tội được loại trừ.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế; xâm phạm đến loại hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng; gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ của người khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[5] Về hình phạt: Với phân tích trên áp dụng hình phạt tiền với bị cáo cũng đủ sức răn đe, phòng ngừa chung và tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Áp dụng mức phạt tiền bằng mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Số pháo thu giữ còn lại sau giám định là hàng cấm cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh kèm sim số điện thoại 098902xxxx và 098620xxxx bị cáo dùng để trao đổi mua bán pháo nổ cần tịch thu phát mại nộp sung quỹ Nhà nước; 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter màu xanh BKS 34B2-xxxxx không liên quan đến tội phạm trả lại cho bị cáo sử dụng.

[7] Về những vấn đề khác: Đối tượng bán pháo nổ cho bị cáo nhưng chưa rõ lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp pháp luật. Do Tòa án áp dụng hình phạt tiền nên hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. [9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Đồng Văn Q 50.000.000 (Năm mươi triệu đồng) về tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 125 của Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Đồng Văn Q.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Đồng Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số pháo còn lại sau giám định; tịch thu phát mại nộp sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh kèm sim số điện thoại 098902xxxx và 098620xxxx; trả lại cho bị cáo Đồng Văn Q 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter màu xanh BKS 34B2-xxxxx (chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, thành phố H).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 137/2023/HS-ST

Số hiệu:137/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về