Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 02/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 16/01/2024, tại Hội trường UBND thị trấn N, huyện N, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số 01/2024/TLST-HS ngày 08/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS ngày 09/01/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Văn Q, sinh ngày 18/9/1998; nơi cư trú: Thôn Trung Điền, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Trịnh Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1980; chưa có vợ, con;

Tiền án: Tại bản án số 36/2021/HSST, ngày 17/6/2021, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong án phạt tù ngày 21/9/2022.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/12/2023 đến ngày 24/12/2023, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N (có mặt);

* Người chứng kiến: Chị Mai Thị B - Sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn Trung Điền, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ, ngày 21/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N nhận được phản ánh của quần chúng nhân dân về việc Trịnh Văn Q có dấu hiệu tàng trữ pháo nổ tại nhà riêng. Sau đó, tổ công tác Công an huyện N phối hợp Công an xã T làm việc và xác minh theo nội dung phản ánh tại nhà của Q. Lực lượng Công an đã phát hiện trên bậc hè phía trước nhà Trịnh Văn Q có 01 bao tải màu trắng, bên trong có 04 khối hình hộp chữ nhật nghi là pháo hoa nổ. Làm việc với lực lượng công an, Q khai nhận đây là 04 hộp pháo hoa nổ mà Q mua của người đàn ông không quen biết vào tối ngày 20/12/2023. Sau đó, Q mang về tàng trữ tại nhà riêng nhằm mục đích sử dụng vào dịp tết Nguyên đán 2024.

Lực lượng công an đã mời người chứng kiến, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trịnh Văn Q. Tang vật, tài sản thu giữ tại thời điểm bắt quả tang, gồm:

- 04 khối hình hộp chữ nhật, mỗi khối hình hộp kích thước (17x 17 x 10) cm, được bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi hộp có 49 ông giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,4cm, được kết nối với nhau.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Plus màu hồng nhạt (đã qua sử dụng), số Imei 356117093451708, gắn sim số 0984.375.xxx.

Quá trình điều tra, Q khai nhận do có nhu cầu sử dụng đốt pháo hoa trong dịp tết Nguyên đán năm 2024, nên đã tìm kiếm thông tin trên các trang mạng xã hội. Khoảng tháng 12/2023, Q liên lạc được với người nam giới hỏi mua pháo hoa. Qua trao đổi, giá mỗi hộp pháo là 1.200.000đ, Q đồng ý mua 04 hộp pháo hoa nổ. Hai bên hẹn gặp mua bán pháo và giao tiền tại thôn Trung Điền, xã T. Khoảng 20 giờ ngày 20/12/2023, một người nam giới khoảng 30 tuổi đi xe ô tô 04 chỗ màu xám mang 04 hộp pháo đến địa điểm trên để giao, kiểm tra đúng số pháo đặt mua, Q thanh toán số tiền là 4.800.000đ. Mua được pháo, Q mang về để ở bậc hè phía trước nhà, trưa ngày 21/12/2023 thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

* Ngày 21/12/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện N quyết định trưng cầu giám định số 82/QĐ-ĐCSKT-MT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định:

Số tang vật Công an huyện N thu giữ của Trịnh Văn Q có phải là pháo hay không? Nếu là pháo thì là loại pháo gì? Khi bị kích thích (hoặc đốt) có gây tiếng nổ hay không? Có tổng khối lượng là bao nhiêu?

* Tại Bản kết luận giám định số 4617/KL-KTHS, ngày 22/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

04 (bốn) khối hộp,mỗi khối hộp kích thước (17 x 17 x 10 cm), bên ngoài bọc giấy nhiều loại màu sắ có in chữ nước ngoài, bên trong có 49 vật hình trụ tròn được liên kết với nhau, mỗi vật dài 10 cm, đường kính 2,4cm của thùng catton niêm phong gửi giám định đều là loại pháo hoa nổ (thuộc pháo nổ). Tổng khối lượng 04 khối hộp trên là 7,32kg (bẩy phẩy ba hai ki lô gam).

Phòng PC09 đã sử dụng 02 vật hình trụ tròn trong mỗi hộp để phục vụ công tác giám định. Đối tượng được hoàn lại sau giám định là 7,2kg(bẩy phẩy hai ki lô gam).

Đi với người nam giới đã bán pháo cho Q tối ngày 20/12/2023, Q không cung cấp được họ tên, đặc điểm, địa chỉ cụ thể của người này. Quá trình trao 2 đổi, người đó chỉ nói cho Q biết đang cư trú tại phường Đông Hương, thành phố Thanh Hóa, cho số điện thoại để kết bạn zalo. Tài khoản zalo của Q là “Trịnh Hồng Q” đăng nhập trong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus kết bạn với tài khoản zalo của người bán pháo là “Lê Đình T”. Khi mua được pháo, Q đã xóa số điện thoại và các tin nhắn zalo liên quan đến việc mua bán pháo. Tối ngày 20/12/2023, tại thời điểm gặp nhau do trời tối, thời gian gặp nhau ngắn nên Q không nhớ đặc điểm con người cũng như biển kiểm soát của xe mô tô của người nam giới đó. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh trên địa bàn phường Đông Hương, thành phố Thanh Hóa không có người tên “Lê Đình T” như Q mô tả. Tài khoản zalo “Lê Đình T” hiện nay đã bị xóa, không còn hoạt động. nên không có căn cứ để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Vật chứng của vụ án: Tổng số lượng pháo còn lại sau giám định và tất cả bao gói mở niêm phong được đựng trong một hộp catton dán kín và niêm phong bởi chữ ký, ghi họ tên Trần N Giang, Trịnh Văn L và các dấu màu đỏ có nội dung “Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 plus màu hồng nhạt đang được bảo quản để xử lý theo quy định.

* Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, số 06/QĐ-VKSNS, ngày 08/01/2024 đối với Trịnh Văn Q, về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trịnh Văn Q từ 09 đến 12 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/12/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 4 Điều 191 BLHS đối với bị cáo.

* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng pháo còn lại sau giám định là 7,2kg (bẩy phẩy hai ki lô gam) pháo hoa nổ (thuộc pháo nổ) và toàn bộ bao gói mở niêm phong được đựng trong hộp catton, dán kín và niêm phong bởi chữ ký ghi họ tên Trần Giang N, Trịnh Văn L và các dấu màu đỏ có nội dung “Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 plus màu hồng nhạt, số Imei: 356117093451708 (đã qua sử dụng), gắn sim số 0984.375.xxx.

Bị cáo Trịnh Văn Q không có ý kiến tranh luận với VKS, đề nghị Chủ tọa phiên tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa nhận định như sau:

3 [1] Xét vụ án: đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại khoản 1 Điều 456 Bộ luật tố tụng hình sự, đó là: “Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng” nên vụ án hình sự này đủ điều kiện để điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn là phù hợp quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Văn Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội:

Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và tang vật đã thu giữ cũng như kết luận giám định xác định đối tượng gửi giám định là pháo nổ. Từ những chúng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 20 giờ, ngày 20/12/2023 tại Thôn Trung Điền, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, Trịnh Văn Q đã mua 7,32kg (bẩy phẩy ba hai kilo gam) pháo nổ (pháo hoa nổ), sau đó đem về nhà cất giấu, mục đích để sử dụng vào dịp tết Nguyên đán 2024. Hành vi phạm tội của bị cáo Q đã phạm vào tội “Tàng trữ hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự như nội dung Quyết định truy tố Viện kiểm sát nhân dân huyện N là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về pháo nổ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được pháo nổ là mặt hàng nhà nước cấm kinh doanh, sử dụng nhưng bị cáo vẫn tàng trữ để phục vụ mục đích của bản thân. Tháng 6/2021, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân, vẫn tiếp tục thực hiện hành vi Tàng trữ hàng cấm.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố đẻ mất sớm, mẹ đi xuất khẩu lao động nước ngoài. Hiện bị cáo đang ở với hai em nhỏ và bà nội già yếu. Trước khi phạm tội đã tích cực tham gia các phong trào do địa phương phát động, được chính quyền địa phương xác nhận và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cho nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5] Từ những căn cứ nêu trên xét thấy cần áp dụng Điều 38 của BLHS có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng tuyên truyền, giáo dục bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, giữ vững an ninh tại địa phương.Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét tình tiết 4 giảm nhẹ; điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo để giảm cho bị cáo một phần hình phạt là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 4 Điều 191 BLHS đối với bị cáo

[7] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy số lượng pháo nổ được hoàn lại sau giám định có khối lượng 7,2 kg (bảy phẩy hai ki lô gam) và toàn bộ bao gói mở niêm phong được đựng trong hộp catton, dán kín và niêm phong bởi chữ ký ghi họ tên Trần Giang N, Trịnh Văn L và các dấu màu đỏ có nội dung “Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa”.

Tch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 plus màu hồng nhạt, số Imei: 356117093451708 (đã qua sử dụng), gắn sim số 0984.375.xxx.

[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

* Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn Q phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

* Xử phạt: Bị cáo Trịnh Văn Q 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (21/12/2023).

* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

Tch thu tiêu hủy: số lượng pháo nổ được hoàn lại sau giám định có khối lượng 7,2 kg (bảy phẩy hai ki lô gam) và toàn bộ bao gói mở niêm phong được đựng trong hộp catton, dán kín và niêm phong bởi chữ ký ghi họ tên Trần Giang N, Trịnh Văn L và các dấu màu đỏ có nội dung “Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa”.

(Theo biên bản làm việc lập ngày 08/01/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

Tch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 plus màu hồng nhạt, số Imei: 356117093451708 (đã qua sử dụng), gắn sim số 0984.375.xxx.

(Theo biên bản giao, nhận đồvật, tài liệu, vật chứng lập ngày 09/01/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc bị cáo Trịnh Văn Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về