Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 38/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 04 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. PHÙNG MAI B, sinh năm 1993 tại Đồng Nai;

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp P, xã T, thị xã M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 01/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Cha: Phùng Văn T, sinh năm 1955; Mẹ: Mai Thị H, sinh năm 1968; Có 05 anh chị em, bị cáo là con út; Chung sống nhưng chưa đăng kí kết hôn với chị Lê Thị Diễm K;

- Tiến án, tiền sự: không.

- Nhân thân: Bản án số 131/2028/HSST ngày 04/9/2018 của TAND huyện T, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù; đã thi hành xong phần án phí và trách nhiệm dân sự.

- Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện đang trú tại Ấp P, xã T, thị xã M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

2. NGUYỄN HOÀNG A, sinh ngày 23/3/1979 tại Quảng Trị;

Hộ khẩu thường trú: Khu phố B, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Chỗ ở: Tổ A, HĐ, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Cha: Nguyễn Hữu D, sinh năm 1954 (chết); Mẹ: Hoàng Thị L, sinh năm 1954; Có 03 anh em, bị cáo là con đầu; Vợ tên Tạ Thị Hồng L, sinh năm 1981; Có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2009;

- Tiền án, tiền sự: không.

- Nhân thân: Bản án số 76/2009/HSST ngày 30/9/2009 của TAND thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Được đặc xá ngày 30/8/2011, đã đóng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện đang trú tại Tổ A, HĐ , phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

3. PHẠM VĂN C, sinh ngày 13/11/1978 tại Nam Định;

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp Đ, xã T, thị xã M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Cha: Phạm Văn T, sinh năm 1952; Mẹ: Đinh Thị N, sinh năm 1958; Có 04 anh chị em, bị cáo là con đầu; Vợ tên Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1987; Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2012;

- Tiền án, tiền sự: không.

- Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện đang trú tại Ấp Đ, xã T, thị xã M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

4. NGUYỄN ĐÌNH S, sinh ngày 28/12/1984 tại Đồng Nai;

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 36 đường V, phường N, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Cha: Nguyễn Văn C, sinh năm 1960; Mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; Có 03 anh em, bị cáo là con đầu;

Vợ tên Tạ Thị Như H, sinh năm 1983; Có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2016;

- Tiền án, tiền sự: không.

- Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện đang trú tại 36 đường V, phường N, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công Ty TNHH Phòng Khám Đa Khoa S; Địa chỉ: 744 đường G, phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn P – Giám đốc (vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do quen biết từ trước nên vào chiều ngày 18/8/2021, Phạm Văn C gọi điện thoại cho Nguyễn Đình S (giám đốc Công ty TNHH H) đề nghị S tham gia chở vật tư trong khu Lọc Hóa dầu LS, thành phố V vào sáng ngày 19/8/2021, S đồng ý. Sau đó S gọi điện cho Phùng Mai B để thuê B theo xe tải (phụ xe) chở vật liệu xây dựng cho S trong khu Lọc Hóa dầu LS, thành phố V vào sáng ngày 19/8/2021, B đồng ý. S yêu cầu B đi xét nghiệm nhanh Covid-19 để xuất trình khi đi qua trạm kiểm soát dịch bệnh Covid-19 của cơ quan chức năng khi vào khu lọc hóa dầu LS làm việc. B đi tìm chỗ xét nghiệm nhưng không tìm được nên đã gọi điện thoại thông báo cho S biết. S gọi cho C thông báo tình hình của B thì C nói hiện tại C đang có một giấy kết quả xét nghiệm nhanh Covid 19 trống nội dung, có đủ chữ kí và con dấu (loại photo màu). Qua trao đổi, S đồng ý nhận giấy tờ trên để cho B có giấy vào khu lọc hóa dầu LS làm việc khi đi qua trạm kiểm soát phòng chống dịch covid-19 khu vực cầu CM, phường T, thành phố V. Sau khi bàn bạc xong với C, S gọi thông báo cho B biết là ngày mai B vào khu lọc hóa dầu LS làm việc bình thường, sẽ có người đưa giấy kết quả xét nghiệm test nhanh covid-19 có đủ chữ ký và con dấu (photo màu) để trống nội dung cho B và nói B mang theo chứng minh nhân dân để ghi thông tin.

Sáng 19/8/2021, Nguyễn Phúc T1 (em trai của S), Lê Thoại T2 (người làm thuê cho S) đi xe ô tô đến đón Nguyễn Hoàng A (người làm thuê cho S) B đi cùng. Khi đi đến vòng xoay BR, T1 dừng xe lại để B xuống xe gặp Phạm Văn C, tại đây C đưa cho B 01 giấy “Kết quả xét nghiệm test nhanh Covid-19” của công ty TNHH phòng khám đa khoa S xác nhận, kết quả âm tính, có đủ chữ ký và hình dấu tròn của công ty bản photo màu nhưng chưa điền thông tin người được test nhanh. Do B không biết chữ nên B nhờ C ghi hộ thông tin của B vào giấy trên nhưng C mới chỉ ghi thông tin “Nam” vào phần giới tính thì thấy chữ xấu nên C đưa lại giấy cho B ghi. Sau đó B nhờ Hoàng A điền thông tin của B vào giấy trên. Hoàng A biết giấy trên là giả nhưng vì cùng làm chung với B, thấy B không ghi được chữ nên ghi giúp cho B.

Sau khi có giấy tờ giả, B lên xe cùng với T1 và T2 qua LS làm việc còn Hoàng A thì đi cùng C. Khi đến chốt kiểm soát dịch Covid 19 tại khu vực cầu CM, thành phố V, qua kiểm tra lực lượng chức năng phát hiện giấy “Kết quả xét nghiệm test nhanh Covid -19 của Công ty TNHH phòng khám đa khoa S xác nhận, khách hàng Phùng Mai B, kết quả âm tính” có dấu hiệu giả mạo nên đã mời B về làm việc.

Tại bản kết luận giám định số 116/PC09 - TL ngày 08/9/2021 của phòng Kỹ Thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu kết luận:

1. Hình dấu “Công ty TNHH phòng khám đa khoa S” trên mẫu cần giám định không phải do con dấu có hình dấu trên tài liệu mẫu so sánh đóng ra, hình dấu được tạo ra bằng phương pháp sao chụp.

2. Không đủ cơ sở kết luận chữ ký mang tên Trần Văn P trên mẫu cần giám định so với chữ ký mang tên Trần Văn P trên mẫu so sánh có phải do cùng một người ký ra hay không (Chữ ký mang tên Trần Văn P trên mẫu cần giám định khác dạng so với chữ ký mang tên Trần Văn P trên tài liệu mẫu so sánh).

Tại cơ quan điều tra, Phùng Mai B, Nguyễn Hoàng A, Phạm Văn C và Nguyễn Đình S khai nhận hành vi phạm tội như trên (Bút lục điều tra từ số 108 đến số 179).

Việc thu giữ vật chứng: 01 giấy “Kết quả xét nghiệm test nhanh Covid-19” của công ty TNHH phòng khám đa khoa S xác nhận, khách hàng Phùng Mai B, kết quả âm tính” qua giám định là tài liệu giả.

Bản cáo trạng số 31/CT-VKSVT ngày 10/01/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố bị cáo Phùng Mai B, Nguyễn Hoàng A, Phạm Văn C và Nguyễn Đình S về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt:

- Đối với bị cáo Phạm Văn C và Nguyễn Đình S: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt mỗi bị cáo mức án từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

- Đối với bị cáo Phùng Mai B và Nguyễn Hoàng A: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt mỗi bị cáo mức án từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị: Tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án vật chứng là 01 giấy “Kết quả xét nghiệm test nhanh Covid-19” của công ty TNHH phòng khám đa khoa S xác nhận, khách hàng Phùng Mai B, kết quả âm tính” qua giám định là tài liệu giả.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát. Không có ý kiến tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt vì các bị cáo đều xác định bản thân là lao động chín. Ngoài ra, mỗi bị cáo trình bày hoàn cảnh, ý thức phạm tội để Hội đồng xét xử xem xét như sau:

- Bị cáo S: Từ trước đến nay luôn làm ăn lương thiện, chủ trương của bị cáo khi đi làm việc vào thời điểm dịch Covid-19 là cả bị cáo và nhân viên đều phải có giấy xét nghiệm theo qui định, do chính bị cáo yêu cầu nên chi phí xét nghiệm cho mọi người do bị cáo phải chi trả. Trường hợp của B, ngay từ đầu S đã yêu cầu B phải đi xét nghiệm, B không phải không chấp hành mà không có nơi nào đồng ý xét nghiệm nhanh cho B. Trong tình thế gấp gáp của yêu cầu công việc, vào lúc nhận thức cũng đơn giản mà đã vi phạm qui định về phòng chống dịch, đồng ý để B sử dụng tài liệu giả để nhằm qua chốt kiểm dịch. Đã rất ăn năn, hối cải đề nghị xem xét giảm nhẹ.

- Bị cáo C: B đang cần, bị cáo thì sẵn có giấy xét nghiệm photo nhặt được và do nhận thức đơn giản, không suy nghĩ sâu sắc hậu quả hành vi của mình, cũng không có trục lợi gì. Nên đề nghị xem xét giảm nhẹ.

- Bị cáo Hoàng A: Biết là giấy giả nhưng lúc đó chỉ nghĩ đơn giản là giúp B ghi thông tin vì B không ghi được chữ. Nay đã nhận thức được nên rất ăn năn hối hận, đề nghị xem xét giảm nhẹ.

- Bị cáo B: Khi S yêu cầu bị cáo phải đi xét nghiệm nhanh ở Trung tâm y tế, bị cáo đã tuân thủ đi tìm nhưng vào lúc thời điểm dịch bệnh căng thẳng nên các trung tâm y tế không chấp nhận xét nghiệm nhanh theo yêu cầu bên ngoài. Khi S, C đưa giấy xét nghiệm biết là giấy giả nhưng nghĩ đơn giản để phục vụ cho yêu cầu gấp của công việc mà vi phạm. Ăn năn hối hận về hành vi sai phạm nên đề nghị xem xét giảm nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[1.2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tòa án đã triệu tập nhưng Công ty TNHH phòng khám đa khoa S vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, quá trình điều tra đã khai rõ, không yêu cầu gì trong vụ án. Nên việc vắng mặt của Công ty TNHH phòng khám đa khoa S không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự, xét xử vắng mặt Công ty TNHH phòng khám đa khoa S.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Căn cứ lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Trong thời gian tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giãn cách xã hội vì đại dịch Covid-19 theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ, do Phùng Mai B không tìm được nơi xét nghiệm nhanh Covid-19 theo yêu cầu của Nguyễn Đình S làm tài liệu xuất trình khi đi qua trạm kiểm soát dịch bệnh Covid-19 tại khu vực cầu CM, thành phố V để vào khu lọc hóa dầu LS làm việc cho Nguyễn Đình S và Phạm Văn C, nên B đã báo cho S, S báo cho C biết. C báo với S là Ccó 01 giấy (loại sao chụp - photo màu) “Kết quả xét nghiệm test nhanh Covid-19” nội dung ghi kết quả âm tính, có chữ ký và hình dấu tròn của Công ty TNHH phòng khám đa khoa S xác nhận nhưng chưa điền thông tin người được test nhanh, do C nhặt được trước đó, nếu cần C đưa S để S đưa B. S nhận lời và hẹn sáng 19/8/2021, tại vòng xoay BR, C gặp đưa cho B giấy “Kết quả xét nghiệm test nhanh Covid-19” giả trên để B điền thông tin cá nhân vào. B không biết chữ nên nhờ Nguyễn Hoàng A điền thông tin của B vào giấy trên. Hoàng A nhận thức được giấy trên là giả nhưng vì cùng làm chung với B, thấy B không ghi được chữ nên ghi thông tin giúp cho B. Với hành vi đã thực hiện này của các bị cáo, đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm, xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức về con dấu, tài liệu; ảnh hưởng xấu đến uy tín của các cá nhân, tổ chức; gây mất trật tự trị an cho xã hội. Hành vi tội phạm của các bị cáo nếu đánh giá về tội phạm chung là hành vi tội phạm đơn giản, chỉ nhằm mục đích thuận tiện cho việc đi lại trên đường. Tuy nhiên, xét hành vi và sự việc phạm tội của các bị cáo đặt trong bối cảnh cao điểm, khốc liệt nhất của địa phương đang toàn tâm, tòa lực, quyết liệt chống dịch bằng những biện pháp rất nghiêm khắc và chặc chẽ. Vào lúc đòi hỏi sự tự giác và chấp hành nghiêm, tuyệt đối của từng người dân. Khi mà, mỗi hành động vi phạm, sai lầm sẽ tạo ra hệ lụy rất nặng nề, có khả năng dẫn đến mất kiểm soát dịch bệnh. Nguy cơ để lại hậu quả xấu, rất lớn liên quan đến sinh mạng, tài sản của nhà nước và nhân dân. Vì vậy, cần có mức án tương xứng, phù hợp với hành vi, mức độ phạm tội của các bị cáo, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với các bị cáo, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung và cảnh tỉnh những hành vi vi phạm về phòng chống dịch.

[4] Xét vai trò, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án:

- Về vai trò: Các bị cáo đều nhận thức được “Giấy xét nghiệm test nhanh Covid-19” là tài liệu giả về xét nghiệm Covid nhưng cùng nhau thực hiện tội phạm, nhằm mục đích để B sử dụng tài liệu này cho việc qua mặt trạm kiểm soát dịch bệnh khi đi đường, với vai trò và mức độ ngang nhau. Tuy nhiên, hành vi vi phạm là bột phát, không có sự cấu kết chặc chẽ nên là đồng phạm giản đơn - Tình tiết tăng nặng: Nguyễn Hoàng A và Phùng Mai B đã bị kết án nhưng được xóa án. Bị cáo B tuy đã xóa án tích nhưng thời gian xóa án tích không lâu lại vi phạm nên coi là có nhân thân xấu.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo bị truy tố theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự, tuy đánh giá về tính nguy hiểm trong mức độ tội phạm của các bị cáo như đã phân tích ở phần trên, là đánh giá về tính nguy cơ; chưa gây thiệt hại, nguy hiểm về thực tế. Vì vậy vẫn áp dụng cho bị cáo S, C, Hoàng A phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Nên áp dụng quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo C, S và Hoàng A; áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo B. Ngoài ra, các bị cáo đều là lao động chính, vào thời điểm dịch bệnh, cũng vì lo mưu sinh bằng công việc lương thiện mà vi phạm qui định về phòng chống dịch dẫn đến phải xử lý về hình sự, nên áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho tất cả các bị cáo.

[5] Về vật chứng:

Tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 giấy “Kết quả xét nghiệm test nhanh Covid-19” của công ty TNHH phòng khám đa khoa S xác nhận, khách hàng Phùng Mai B, kết quả âm tính” qua giám định là tài liệu giả.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phùng Mai B, Nguyễn Hoàng A, Phạm Văn C và Nguyễn Đình S phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

1. Về hình phạt:

* Đối với bị cáo Phùng Mai B: Áp dụng khoản 1 Điều 341; s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 35 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt Phùng Mai B hình phạt chính là phạt tiền 50 (năm mươi) triệu đồng.

* Đối với bị cáo Nguyễn Đình S, Phạm Văn C và Nguyễn Hoàng A: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 35 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt Nguyễn Đình S hình phạt chính là phạt tiền 40 (bốn mươi) triệu đồng.

đồng.

- Xử phạt Phạm Văn C hình phạt chính là phạt tiền 40 (bốn mươi) triệu đồng.

- Xử phạt Nguyễn Hoàng A hình phạt chính là phạt tiền 40 (bốn mươi) triệu 2. Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Riêng người có quyền kháng cáo nhưng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

359
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 38/2022/HS-ST

Số hiệu:38/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về