TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2022/TLST-HS ngµy19 th¸ng 01 n¨m 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:
Phạm Văn A, sinh năm 1988; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: xã T, huyện N, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Con ông Phạm Văn Y và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Phạm Thị P và 04 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1980; (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Văn A làm lái xe thuê cho Công ty TNHH H là công ty vận tải đông lạnh vận chuyển cung cấp rau củ quả cho hệ thống cửa hàng V ở các tỉnh, thành phố có trụ sở tại phường N, quận L, thành phố Hà Nội từ đầu tháng 8/2021.Vào thời điểm tháng 8/2021 tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn ra trên cả nước đang phức tạp, để được lưu thông vào các tỉnh, thành phố, thì các lái xe của Công ty phải có giấy xét nghiệm Covid-19 bằng phương pháp PCR, việc xét nghiệm Covid-19 do các lái xe tự thực hiện và Công ty sẽ thanh toán chi phí xét nghiệm. Phạm Văn A được công ty giao tạm thời điều khiển xe ô tô biển số 29H-378.xx đi giao rau củ quả cho các cửa hàng V trên địa phận thành phố Hải Phòng. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14/8/2021 Phạm Văn A điều khiển xe ô tô biển số 29H-378.xx đến kho hàng tại Khu công nghiệp V địa chỉ ở xã P, huyện T, tỉnh B, khi đang ngồi trên xe thì có một người đàn ông tên là T (theo A khai) cũng là lái xe nói với A "ai có tên thì ra xe của T lấy giấy tờ" ý hiểu là lấy giấy xét nghiệm Covid. Phạm Văn A đi ra xe T thấy trên táp lô của xe T có Phiếu kết quả xét nghiệm vi sinh học phân tử Covid mang tên Phạm Văn A đề ngày 14/8/2021 của Bệnh viện đa khoa Đ, kết quả xét nghiệm âm tính. Phạm Văn A biết đây là phiếu xét nghiệm Covid giả, vì A không đi xét nghiệm tại Bệnh viện đa khoa Đ vào ngày 14/8/2021, nhưng A vẫn cầm Phiếu kết quả xét nghiệm trên mục đích để xuất trình khi lái xe đi qua các chốt kiểm soát dịch bệnh Covid-19. Sau đó, Phạm Văn A đi bốc hàng và giao hàng tại các cửa hàng V tại thành phố Hải Phòng. Đến khoảng 10 giờ ngày 16/8/2021 Phạm Văn A điều khiển xe ô tô tải 29H-378.xx đi qua chốt kiểm soát dịch bệnh Covid-19 tỉnh Hải Dương (chốt A26) thuộc phố Q, xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương và xuất trình Phiếu kết quả xét nghiệm vi sinh học phân tử Covid giả nêu trên. Sau khi kiểm tra, tổ công tác tại chốt phát hiện Phiếu kết quả xét nghiệm Covid PCR của Phạm Văn A cung cấp có dấu hiệu làm giả nên đã lập biên bản và chuyển vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ giải quyết (bút lục số 18).
Tại Kết luận giám định số 91/C09-P2 ngày 05/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: hình tròn mang tên "Bệnh viện đa khoa Đ" trên Phiếu kết quả xét nghiệm vi sinh sinh học phân tử (Covid) (ký hiệu A) là giả; Chữ ký đứng tên KTV Đỗ Quốc H trên Phiếu kết quả xét nghiệm vi sinh sinh học phân tử (Covid) (ký hiệu A) với chữ ký cùng tên trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M2) không phải do cùng một người ký ra (bút lục số 43).
Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKSTK, ngày 18/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố: Bị cáo Phạm Văn A, về tội: Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Văn A thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình công nhận quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ là đúng.
Đại diện VKSND huyện Tứ Kỳ tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX ) áp dụng khoản 1 của Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của BLHS đối với bị cáo; Tuyên bố bị cáo Phạm Văn A phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Xử phạt bị cáo Phạm Văn A số tiền từ 35 đến 45 triệu đồng; ngoài ra còn đề nghị về hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản vụ việc, lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết: Khoảng 10 giờ ngày 16/8/2021 tại chốt kiểm soát dịch bệnh Covid-19 tỉnh Hải Dương (chốt A26) thuộc phố Q, xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương, Phạm Văn A đã có hành vi sử dụng Phiếu kết quả xét nghiệm vi sinh học phân tử Covid giả của Bệnh viện đa khoa Đ ghi ngày 14/8/2021 để đi qua chốt kiểm soát dịch bệnh vào địa bàn tỉnh Hải Dương thì bị tổ công tác của chốt kiểm soát dịch bệnh phát hiện, lập biên bản.
[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức là vi phạm pháp luật song vẫn cố ý thực hiện, nên hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định khoản 1 Điều 341 BLHS. Do đó cáo trạng của VKSND huyện Tứ Kỳ truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước, nên cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự , sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền vẫn có tác dụng răn đe riêng đối với bị cáo như đề nghị của đại diện VKS tại phiên tòa là phù hợp [6] Về hình phạt bổ sung: Do áp dụng hình phạt chính đối với bị cáo là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phiếu kết quả xét nghiệm vi sinh học phân tử (COVID) mang tên Phạm Văn A ghi ngày 14/8/2021 có chữ ký kỹ thuật viên tên Đỗ Quốc H, có hình dấu tròn Bệnh viện đa khoa Đ là Giấy xét nghiệm covid giả hiện được lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên không đặt ra giải quyết.
[8] Trong vụ án, bị cáo Phạm Văn A khai người đàn ông tên T là người đã đưa giấy xét nghiệm Covid giả cho Phạm Văn A, qua xác minh tại Công ty TNHH H xác định không có người tên T là lái xe của công ty nên chưa làm rõ được, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ nếu có căn cứ được giải quyết trong vụ án khác.
[9] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của BLHS;
1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn A phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn A số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm ngày), kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 22/02/2022./.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 10/2022/HS-ST
Số hiệu: | 10/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về