Bản án về tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 36/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 27/03/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU, TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 27 tháng 3 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2023/TLST-HS ngày 18/01/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2023/QĐXX ST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị L (tên gọi khác: không); Sinh năm: 1978 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: tổ B, ấp B, xã B, thành phố L, Đ. Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Nghề nghiệp: Môi giới bất động sản; Trình độ văn hóa: 5/12; con ông Nguyễn Tiến T1, sinh năm 1937 (đã chết) và bà Nguyễn Thị V, sinh năm: 1937 (còn sống); có chồng là Lê Thu P, sinh năm 1956 (đã ly hôn) và 2 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2009.

Tiền án, tiền sự : không Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 20/10/2022 cho đến nay.

(Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa).

- Luật sư bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo L: luật sư Nguyễn Trọng T2, văn phòng L2, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đ (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn Thị Ngọc T3, sinh năm 1979. Địa chỉ: 1 T, khu phố C, phường X, thành phố L, tỉnh Đ (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Nguyễn Thị Ngọc T3 là chủ sử dụng thửa đất số 8, tờ bản đồ số 2 bản đồ địa chính phường B, thành phố L. Ngày 14/10/2021 chị T3 thỏa thuận chuyển nhượng 1 phần thửa đất trên cho Nguyễn Thị L với giá 1.350.000.000 đồng, tuy nhiên do L đang nợ tiền của anh Lê Văn T4 nên L và chị T3 thỏa thuận chị T3 ký ủy quyền qua cho anh T4 được quyền sử dụng 1 phần thửa đất trên. L đã thanh toán cho chị T3 số tiền 560.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền 790.000.000 đồng, hẹn sẽ thanh toán trong thời gian từ ngày 14/10/2021 đến 30/10/2021, chị T3 và L ra Văn phòng công chứng Huỳnh Thị L1 có trụ sở tại khu phố C, phường X, thành phố L để ký hợp đồng vay số tiền 800.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng, chị T3 yêu cầu L phải thế chấp tài sản để làm tin, thì L đã lấy 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 765523, do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/05/2021, mang tên Nguyễn Thị L, thửa đất số 227, tờ bản đồ 18, diện tích 910m2 tại ấp H, thành phố T, Bình Dương để thế chấp cho chị T3.

Quá thời hạn trả tiền, L không thanh toán mà còn tránh mặt, chị T3 đã nhờ kiểm tra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp trên thì phát hiện là giả nên làm đơn tố cáo đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L.

Quá trình điều tra xác định: vào tháng 01/2021, L quen biết với 1 người đàn ông tên Nguyễn Văn S (không biết năm sinh, địa chỉ cụ thể), S nói cần bán 1 thửa đất ở ấp H, thành phố T, tỉnh Bình Dương với giá 300.000.000 đồng, sau khi được S chở đi xem đất thì L đồng ý mua và giao tiền mặt số tiền 300.000.000 đồng cho S, việc mua bán chỉ có giấy viết tay không có hợp đồng công chứng theo quy định pháp luật. Sau đó, S nói đưa thêm 10.000.000 đồng nữa để làm ra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên L, L đồng ý đưa cho S 10.000.000 đồng, cùng giấy mua bán viết tay, bản sao giấy chứng minh nhân dân và hộ khẩu để S làm giấy tờ. Đến tháng 05/2021 L nhận được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 765523, do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/05/2021, mang tên Nguyễn Thị L, thửa đất số 227, tờ bản đồ 18, diện tích 910m2 tại ấp H, thành phố T, Bình Dương qua đường bưu điện. Bản thân bị can L biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên là giả, vì việc mua bán chuyển nhượng không được thực hiện đúng theo quy định pháp luật, nhưng khi chị T3 yêu cầu thế chấp tài sản để làm tin cho khoản nợ thì bị can L vẫn lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên ra đưa cho chị T3.

Tại bản Kết luận giám định số 1186/KLGĐ - PC 09, ngày 24/06/2022, phòng K Công an tỉnh Đ , kết luận :

1. Hình dấu tròn Cộng hòa XHCN Việt Nam - Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh B trên tài liệu nêu ở mẫu cần giám định (ký hiệu A) so với hình dấu tròn Cộng hòa XHCN Việt Nam - Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh B trên các tài liệu nêu ở mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M5) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

2. Chữ ký mang tên Trần Minh D trên tài liệu nêu ở mẫu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ ký mang tên Trần Minh D trên các tài liệu nêu ở mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M5) không phải do cùng một người ký ra.

3. Mẫu in tài liệu nêu ở phần mẫu cần giám định ( ký hiệu A) so với mẫu in các tài liệu nêu ở phần mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M5) không phải do cùng một bản in ra.

Vật chứng thu giữ:

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L thu giữ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 765523, do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho bà Nguyễn Thị L, thửa đất số 227, tờ bản đồ 18, diện tích 910m2 tại ấp H, thành phố T, Bình Dương.

Về phần dân sự: Chị Nguyễn Thị Ngọc T3 yêu cầu Nguyễn Thị L bồi thường số tiền 800.000.000 đồng. Hiện L chưa bồi thường cho chị T3.

Tại bản Cáo trạng số: 18/CT-VKS-LK ngày 18/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Nguyễn Thị Lan về tội: “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay, Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà, giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội danh nêu trên và áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và đề nghị xử phạt bị cáo từ 10 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Hình phạt bổ sung: không Xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy GCNQSD đất số 765523, do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/05/2021, mang tên Nguyễn Thị L Về trách nhiệm dân sự: bị cáo L có nghĩa vụ thanh toán cho chị Nguyễn Thị Ngọc T3 số tiền 800.000.000đ.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu:

Thống nhất quan điểm truy tố của Viện kiểm sát thành phố L về tội danh. Tuy nhiên, bị cáo L có hoàn cảnh khó khăn, trình độ học vấn thấp, không nắm bắt được các quy định của pháp luật mà chỉ đi theo người khác để môi giới đất đai có thêm thu nhập, bị cáo không hiểu được bản chất sự việc mà do ý thức chủ quan tin người nên phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo là đủ nghiêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Ngọc T3 phát biểu: yêu cầu bị cáo trả lại tiền cho tôi.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ân hận, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo L khai nhận:

Do thiếu chị Nguyễn Thị Ngọc T3 790.000.000 đ tiền chuyển nhượng đất nên giữa bị cáo và chị T3 đã thỏa thuận ký hợp đồng vay số tiền 800.000.000 đồng tại Văn phòng công chứng Huỳnh Thị L1. Sau khi ký hợp đồng, chị T3 yêu cầu L phải thế chấp tài sản để làm tin nên L đã lấy 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 765523, do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/05/2021, mang tên Nguyễn Thị L, thửa đất số 227, tờ bản đồ 18, diện tích 910m2 tại ấp H, thành phố T, Bình Dương để thế chấp cho chị T3. Tại thời điểm thế chấp, L đã biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên là giả do đối tượng tên S cung cấp cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác cũng như các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án.

Mặc dù bị cáo không sử dụng GCNQSD đất giả để thế chấp cho chị T3 trước khi ký hợp đồng vay mượn để chiếm đoạt số tiền vay mượn 800.000.000đ, nhưng hành vi dùng GCNQSD đất mà bản thân mình biết là giả để nhằm tạo niềm tin với người khác, kéo dài thời gian trả nợ, thì hành vi của bị cáo đã đủ cấu thành tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhận thấy: bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực tự điều khiển hành vi của mình nên nhận thức được những việc làm đúng sai, những việc pháp luật nghiêm cấm cũng như hành vi sử dụng tài liệu giả mạo để thực hiện giao dịch với chị T3 là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của các tổ chức, cơ quan Nhà nước trong quản lý hành chính được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người biết chấp hành pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự nên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng là 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 765523, do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho bà Nguyễn Thị L, thửa đất số 227, tờ bản đồ 18, diện tích 910m2 tại ấp H, thành phố T, Bình Dương, là giấy tờ, tài liệu chứa mẫu dấu xác nhận giả, cần được lưu trữ trong hồ sơ vụ án nên không xử lý theo quy định tại Điều 106 BLTTHS mà tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án.

Về phần dân sự: Chị Nguyễn Thị Ngọc T3 yêu cầu bị cáo L bồi thường số tiền 800.000.000 đồng. Xét thấy số tiền này là do bị cáo thiếu nợ chị T3 khi thực hiện giao dịch dân sự chuyển nhượng thửa đất số 8, tờ bản đồ số 2 phường B, thành phố L, không phải số tiền bị cáo lừa đảo để chiếm đoạt của chị T3 nên chị T3 được quyền khởi kiện bị cáo trong vụ án dân sự khác.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

[8] Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo: phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận một phần.

Đối với đối tượng tên Nguyễn Văn S, bị cáo L khai đã làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả cho bị can, bị cáo L chỉ cung cấp được họ tên và số điện thoại 0332925378, không biết năm sinh, địa chỉ cụ thể, hiện số điện thoại trên không còn liên lạc được, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 341 ; điểm i, s khoản 1 Điều 51 ; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị L 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01 năm 08 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo L cho UBND xã B, thành phố L, tỉnh Đ giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tong hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật tố tụng hình sự”.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 36/2023/HS-ST

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về