TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 03/2024/HS- ST NGÀY 09/01/2024 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 09/01/2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2023/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104a/2023/ HSST- QĐ ngày 22/12/2023 đối với các bị cáo:
1.Họ và tên: Đồng Thiên N, sinh ngày 09/4/2006. Tên gọi khác: Không. Giới tính: N (Có mặt).
Nơi cư trú: Thôn Đồng Quần, xã Vô Tranh, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang;
Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không;Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12;Con ông Đồng Xuân Hảo, sinh năm 1985;Con bà Đào Thị Phượng, sinh năm 1986;Vợ, con: chưa có;
Tiền án, tiền sự: Không. Bị caó bị bắt quả tang, không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại.
2. Họ và tên: Nguyễn Minh H, sinh ngày 19/8/2005. Tên gọi khác:
Không. Giới tính: N( Có mặt ).
Nơi cư trú: Thôn Đồng Quần, xã Vô Tranh, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không;Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông Nguyễn Văn Hưng, sinh năm 1983; Con bà Bùi Thị Hoà, sinh năm 1985; Vợ, con: Chưa có;
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 28/4/2023, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang khởi tố bị can về tội “Cố ý gây thương tích”. Tại Bản án số 131/2023/HS-ST ngày 26/10/2023, Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn xử phạt Nguyễn Minh H 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”.
Bị caó bị bắt quả tang, không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại.
Đại diện hợp pháp của bị cáo N:
Bà Đào Thị Phượng, sinh năm 1986( Có mặt ).
Nơi cư trú: Thôn Đồng Quần, xã Vô Tranh, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang.
Đoàn TNCS HCM huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang: Đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Trọng Tân- Bí thư ( Đề nghị vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Với mục đích kiếm lời, Đồng Thiên N, sinh ngày 09/4/2006, nơi cư trú: Thôn Đồng Quần, xã Vô Tranh, huyện Lục N tự học cách chế tạo, sản xuất pháo nổ dạng pháo trứng trên mạng xã hội. Vào khoảng thời gian đầu tháng 9/2023, có một người đàn ông tên Long đặt vấn đề mua 100 quả pháo trứng của N, N đồng ý bán cho Long với giá 50.000 đồng/1 quả, hẹn đến ngày 10/9/2023 sẽ giao pháo cho Long. N đặt mua nguyên liệu sản xuất pháo trên mạng, đến ngày 10/9/2023, N bắt đầu sản xuất pháo nổ tại nhà riêng. Khoảng 08 giờ ngày 10/9/2023, Nguyễn Minh H, sinh năm 2005 ở cùng thôn đi bộ sang nhà N chơi. Tại đây, N bảo H cùng nhau làm pháo để bán, lợi nhuận thu được thì chia đôi. H đồng ý và cùng N quấn pháo. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, N và H làm được 82 quả pháo nổ (dạng pháo trứng). Sau đó, N và H cho tất cả số pháo trên vào 01 thùng Carton để mang đi bán. N điểu khiển xe máy của N, H ngồi đằng sau ôm thùng pháo. Khi đi đến thôn Cầu Gỗ, xã Trường Sơn, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang thì bị công an bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật,kiểm tra trọng lượng tại chỗ được 6,4 kg. Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) thùng Carton, bên trong đựng 82 vật dạng hình bóng điện tròn (nghi là pháo nổ), tổng trọng lượng là 6,4 kg.
- 01 (một) xe máy đã qua sử dụng nhãn hiệu Wave α màu xanh dương không biển kiểm soát, số khung RLHJA392MY254663, số máy JA39E - 2374948 .
- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại, bên ngoài có bọc 01 ốp điện thoại nhựa dẻo màu nâu đất của Đồng Thiên N đã qua sử dụng .
Cùng ngày 10/9/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 29, 30, khám xét nơi ở của Đồng Thiên N ở thôn Đồng Quần, xã Vô Tranh, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang, thu giữ: 01 túi ni lông màu xanh bên trong chứa chất bột màu đen (nghi là thuốc pháo); 01 túi ni lông màu đen, bên trong chứa 62 khối hình bán nguyệt (nghi vỏ pháo); 02 cuộn giấy nilon trong suốt đã sử dụng một phần; 01 cân tiểu ly loại 3000g x 0,1g;
01 cuộn dây dù màu trắng đã sử dụng một phần; 08 đoạn dây có kích thước khác nhau nghi là ngòi pháo; 01 kéo; 01 que đũa tre; 01 dao dọc giấy màu nâu xám; 01 thìa bằng kim loại; 01 đĩa bằng kim loại, hình tròn một mặt màu bạc, một mặt màu đỏ; 01 mâm bằng kim loại, bên trên bám dính nhiều chất bột màu đen; 01 thùng xốp màu trắng bên trong bám dính màng chất màu đen; 01 lồng bàn bằng nhựa màu đỏ; 01 chậu bằng nhựa màu xanh, bên trong bám dính màng chất màu đen; 09 cuộn băng dính một mặt màu vàng đã qua sử dụng .
- Tại nơi ở của Nguyễn Minh H, không thu giữ gì .
Tại kết luận giám định số 6717/KL-KTHS ngày 12/9/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:
+ 82 vật hình tròn dạng bóng điện đều là pháo nổ (pháo hoa nổ), khối lượng pháo hoa nổ là 6,4 kg.
+ Chất bột màu đen là thuốc pháo nổ, khối lượng là 0,4 kg.
+ 08 đoạn dây có kích thước khác nhau đều là dây ngòi pháo, khối lượng dây ngòi pháo là 10g (Mười gam) .
Đối với bà Đào Thị Phượng, sinh năm 1986, trú tại thôn Đồng Quần, xã Vô Tranh, huyện Lục N (Là mẹ đẻ của Đồng Thiên N), bản thân chị Phượng đi làm công nhân và ở trọ tại địa bàn thành phố Bắc Giang. Quá trình N sản xuất pháo nổ thì chị Phượng không biết, do vậy việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N xác định chị Đào Thị Phượng không đồng phạm với Đồng Thiên N .
Xác minh đối tượng tên Long mà Đồng Thiên N khai nhận là người đặt mua pháo xác định là Chu Diệu Long, sinh năm 1994, trú tại thôn Cầu Gỗ, xã Trường Sơn, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang. Long là người người có mối quan hệ với N từ nhiều năm trước, Long thừa có sử dụng số điện thoại trên để liên hệ với N qua số điện thoại 0825618521 nhiều lần nhưng nội dung các cuộc điện thoại mục đích là hỏi về công việc, không liên hệ để hỏi mua bán pháo nổ. Ngày 07/11/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N đã tiến hành đối chất giữa Chu Diệu Long và Đồng Thiên N, tuy nhiên không làm rõ được các mâu thuẫn, nên không có căn cứ xử lý đối với Long.
Về vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N đã nhập kho vật chứng để chờ xử lý đối với: 72 (bảy mươi hai) quả pháo nổ, 0,3 kg thuốc pháo nổ, 05 (năm) dây ngòi pháo được niêm phong trong thùng bìa carton do Viện khoa học hình sự Bộ Công an hoàn lại sau giám định; 01 xe máy nhãn hiệu Wave α (alpha) màu xanh dương không có BKS, số khung RLHJA392MY254663, số máy JA39E- 2374948 (xe cũ, đã qua sử dụng); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại, bên ngoài có bọc 01 ốp điện thoại nhựa dẻo màu nâu đất của Đồng Thiên N đã qua sử dụng (được niêm phong); 01 túi nilon màu đen bên trong có chứa 62 khối hình bán nguyệt màu vàng; 02 cuộn giấy nilon màng bọc thực phẩm (đã sử dụng một phần); 01 cân tiểu ly; 01 cuộn dây dù màu trắng đã sử dụng một phần; 01 kéo; 01 que đũa tre; 01 dao dọc giấy màu nâu xám;
01 thìa bằng kim loại; 01 đĩa bằng kim loại hình tròn; 01 mâm bằng kim loại bên trên có bám dính chất bột màu đen; 01 thùng xốp màu trắng bên trong bám dính màng chất màu đen; 01 lồng bàn bằng nhựa màu đỏ; 01 chậu nhựa màu xanh bên trong bám dính màng chất màu đen; 09 cuộn băng dính một mặt màu vàng, đã sử dụng một phần.
Cáo trạng số 110 /CT- VKS ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang truy tố Đồng Thiên N và Nguyễn Minh H về tội “ Sản xuất, buôn bán hàng cấm” tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa ,các bị cáo khai nhận toàn bộ nội dung của Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng diễn biến hành vi phạm tội, đúng quy định pháp luật, không oan. Các bị cáo khai nhận như nội dung Cáo trạng truy tố các bị cáo tại phiên tòa. Bị cáo N trình bày 01 xe máy nhãn hiệu Wave α (alpha) màu xanh dương không có BKS, số khung RLHJA392MY254663, số máy JA39E- 2374948 là tài sản của Bị cáo để đi lại hằng ngày; điện thoại Iphone màu đen là tài sản của bị cáo, dùng liên lạc với Long để buôn bán pháo nổ. Các bị cáo đều trình bày không có nghề nghiệp, thu nhập thường xuyên Đại diện hợp pháp của bị cáo là bà Đào Thị Phượng trình bày: Đồng ý với nội dung Cáo trạng truy tố bị cáo. Bà Phượng đi làm công nhân ở thành phố Bắc Giang nên không biết bị cáo N sản xuất, buôn bán pháo. Về chiếc 01 xe máy nhãn hiệu Wave α vật chứng vụ án là tài sản của bị cáo N.
Người bào chữa cho bị cáo N trình bày : Đồng ý với nội dung Cáo trạng truy tố bị cáo.Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét độ tuổi, khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm của Bị cáo. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo N từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo để bị cáo sữa chữa lỗi lầm, trở thành công dân tốt cho xã hội.
Đoàn TNCS HCM huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang: Đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Trọng Tân- Bí thư tại bản luận cứ trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét độ tuổi, khả năng nhận thức hạn chế về xã hội và pháp luật của Bị cáo. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt nhẹ nhất cho bị cáo N để bị cáo sữa chữa lỗi lầm, trở thành công dân tốt cho xã hội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang sau khi đánh giá tính chất vụ án, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, độ tuổi, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã luận tội và đề nghị kết tội: Hành vi của các bị cáo sản xuất, buôn bán 6,4kg pháo hoa nổ nên vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự; do vậy vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố bị cáo.
Trong vụ án bị cáo N giữ vai trò chỉnh, bị cáo H giữ vai trò đồng phạm thứ hai. Bị cáo N phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên xét xử theo nguyên tắc chung đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là " Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải ”. Ngoài ra, bị cáo N có ông nội tham gia chiến đấu ở chiến trường Campuchia, gia đình bị cáo H thờ cúng liệt sĩ nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự với các bị cáo.
Bị cáo N phạm tội dưới 18 tuổi, có nhân thân tốt, nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Do vậy căn cứ Điều 91, Điều 65 Bộ luật hình sự không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp với độ tuổi, nhân thân và tính chất vụ án. Bị cáo H có vai trò đồng phạm thứ hai; tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu lại tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần cách ly khỏi xã hội một thời hạn là phù hợp quy định pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử : Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 91,Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo N từ 12 tháng đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Sản xuất, buôn bán hàng cấm ” , thời gian thử thách là 24 tháng đến 30 tháng tính từ ngày tuyên bản án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Vô Tranh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo H từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “ Sản xuất, buôn bán hàng cấm ”.
Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Ngoài ra còn đề nghị về xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội, do không hiểu biết pháp luật nên xin giảm hình phạt nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục N; Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lục N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Về căn cứ xác định cấu thành tội phạm: Với mục đích kiếm lời, Đồng Thiên N đã tự sản xuất pháo nổ dạng pháo trứng.Trong ngày 10/9/2023, Đồng Thiên N đã rủ Nguyễn Minh H cùng nhau sản xuất được 82 quả pháo nổ (pháo hoa nổ) có tổng khối lượng 6,4 kg và đang vận chuyển mục đích để đi bán thì bị bắt quả tang. Do vậy hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội phạm: Sản xuất, buôn bán hàng cấm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự .Trong vụ án các bị cáo phạm tội đồng phạm đơn giản, trong đó bị cáo N giữ vai trò chính, bị cáo H giữ vai trò đồng phạm thứ hai.
Tuy nhiên, các bị cáo là người lao động sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế, phạm tội có tính chất nhất thời. Bị cáo N phạm tội khi dưới 18 tuổi, do vậy việc xử lý phải theo nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 91 Bộ luật hình sự : “ Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội ” .
-“ Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng giáo dục răn đe, phòng ngừa.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là " Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải ”. Ngoài ra, bị cáo N có ông nội tham gia chiến đấu ở chiến trường Campuchia, gia đình bị cáo H thờ cúng liệt sĩ nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự với các bị cáo.
Bị cáo N phạm tội dưới 18 tuổi, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Do vậy căn cứ Điều 91, Điều 65 Bộ luật hình sự không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp với độ tuổi, nhân thân và tính chất vụ án. Bị cáo H có vai trò đồng phạm thứ hai nhưng bị cáo có nhân thân xấu lại tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần cách ly khỏi xã hội một thời hạn là phù hợp quy định pháp luật.
Tuy nhiên bị cáo giữ vai trò đồng phạm thứ yếu, mức độ hành vi phạm tội ở khởi điểm, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; do vậy cần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo H ở mức khởi điểm khung hình phạt là phù hợp, đủ sức giáo dục bị cáo thành công dân tốt và phòng ngừa tội phạm chung.
[3]. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: 01 xe máy nhãn hiệu Wave α (alpha) màu xanh dương không có BKS, số khung RLHJA392MY254663, số máy JA39E- 2374948 (xe cũ, đã qua sử dụng); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại, bên ngoài có bọc 01 ốp điện thoại nhựa dẻo màu nâu đất của Đồng Thiên N đã qua sử dụng (được niêm phong) là phương tiên phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.72 quả pháo nổ, 0,3 kg thuốc pháo nổ, 05 dây ngòi pháo được niêm phong trong thùng bìa carton do Viện khoa học hình sự Bộ Công an hoàn lại sau giám định; 01 túi nilon màu đen bên trong có chứa 62 khối hình bán nguyệt màu vàng; 02 cuộn giấy nilon màng bọc thực phẩm (đã sử dụng một phần); 01 cân tiểu ly; 01 cuộn dây dù màu trắng đã sử dụng một phần; 01 kéo; 01 que đũa tre; 01 dao dọc giấy màu nâu xám; 01 thìa bằng kim loại; 01 đĩa bằng kim loại hình tròn; 01 mâm bằng kim loại bên trên có bám dính chất bột màu đen; 01 thùng xốp màu trắng bên trong bám dính màng chất màu đen; 01 lồng bàn bằng nhựa màu đỏ; 01 chậu nhựa màu xanh bên trong bám dính màng chất màu đen; 09 cuộn băng dính một mặt màu vàng, đã sử dụng một phần cần tịch thu tiêu hủy.
Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo do bị cáo N phạm tội dưới 18 tuổi, bị cáo H không có nghề nghiệp, thu nhập thường xuyên.
[4].án phí: Mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm . Từ những nhận định trên:
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91, các Điều 17, 58, Điều 65 Bộ luật hình sự :
2.Xử phạt: Bị cáo Đồng Thiên N 01 năm tù nhưng hưởng án treo về tội “ Sản xuất, buôn bán hàng cấm ”.Thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên bản án sơ thẩm.
Giao bị cáo N cho Uỷ ban nhân dân xã Vô Tranh để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách . Trong thời gian thử thách, nếu người hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 56 Bộ luật hình sự. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự : Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 01 năm tù về tội “ Sản xuất, buôn bán hàng cấm ”.Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 334 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Các bị cáo N và H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực thi hành và có quyết định thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo và đại diện hợp pháp có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên bản án.
Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 03/2024/HS-ST
Số hiệu: | 03/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về