Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 117/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 117/2021/HS-ST NGÀY 13/10/2021 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên,tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 169/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

1/ Trần Văn H (Tên gọi khác: Chuối Em), sinh năm 1991; nơi sinh: Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Số nhà 719, Tổ 2, khu phố V, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; nghề Ng: Không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H và bà Phan Thị Nguyệt H; có vợ tên Phạm Thị Kim A và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 02/6/2021, sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

2/ Võ Tuấn Th, sinh năm 1993; nơi sinh: Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Số 59, khu phố C, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; nghề Ng: Bảo vệ; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Tuấn Th và bà Lê Thị Tuyết L; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 01/6/2021, sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

3/ Phùng Minh C, sinh năm 1993; nơi sinh: Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Tổ 1, khu phố T, phường TP, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; nghề Ng: Công nhân; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn Q và bà Nguyễn Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 01/6/2021, sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

4/ Đỗ Văn T, sinh năm 1999; nơi sinh: Thanh Hóa; hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã Đ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề Ng: Công nhân; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn V và bà Nguyễn Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 01/6/2021, sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Võ Tấn Ng, sinh năm 1971; địa chỉ: Khu phố C, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2/ Bà Lê Thị Cẩm H, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn 17, xã H, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

3/ Ông Đỗ Văn V, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn K, xã Đ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Minh H, anh Nguyễn Hòa H1, chị Võ Thị Huyền T1, anh Trần Hoàng T2, anh Nguyễn Ngọc H3, anh Nguyễn Văn M; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn H, Phùng Minh C, Võ Tuấn Th, Đỗ Văn T có mối quan hệ là bạn với nhau và đều là đối tượng nghiện ma túy; loại ma túy mà H, C, Th, T sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine). Để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, khoảng đầu tháng 4/2021 thì H bắt đầu bán ma túy cho các đối tượng nghiện. Ngày 01/6/2021, hành vi mua bán, tàng trữ ma túy của các bị cáo cụ thể như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 01/6/2021, Th điều khiển xe mô tô hiệu Citi màu nâu biển số 61F5 – 0218 đến nhà C ở khu phố Tân Lương, phường Thạnh Phước, thị xã Tân Uyên chơi. Tại đây, Th rủ C cùng đi mua ma túy đá sử dụng thì C đồng ý. Do không có tiền nên Th và C thống nhất mang điện thoại của Th đi cầm cố lấy 300.000 đồng mua ma túy rồi hôm sau C sẽ trả lại Th 150.000 đồng. Sau đó, Th điều khiển xe mô tô chở C đi đến tiệm cầm đồ Tấn Hải 3 thuộc khu phố Cây Chàm, phường Thạnh Phước do ông Nguyễn Thanh Hải làm chủ để cầm điện thoại hiệu Nokia của Th lấy 300.000 đồng rồi Th tiếp tục điều khiển xe mô tô chở C đi đến nhà số 719 thuộc tổ 2, khu phố Vĩnh Phước, phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên để gặp H mua ma túy. Khi đến nơi, C đứng bên ngoài canh xe còn Th đi vào bên trong nhà gặp H hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá thì H đồng ý. Lúc này, Th đưa cho H số tiền 300.000 đồng thì H đưa cho Th 01 gói ny lon miệng hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng rồi Th cầm lấy và đi ra vị trí C đang chờ. Sau đó, Th đưa cho C gói ma túy đá vừa mua được để C cất giữ còn Th điều khiển xe mô tô chở C đi về nhà để cả hai cùng sử dụng ma túy. Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, khi Th điều khiển xe mô tô chở C đến đoạn đường thuộc khu phố Tân Lương, phường Thạnh Phước, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an thuộc Phòng C sát phòng chống tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Dương phối hợp với Công an thị xã Tân Uyên và Công an phường Thạnh Phước đang tiến hành tuần tra vũ trang trên địa bàn phường Thạnh Phước phát hiện Th, C có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe để kiểm tra hành chính. Khi kiểm tra phát hiện tay phải C đang cầm Ti nylon miệng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng. C và Th khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy đá cả hai vừa mua của H với giá 300.000 đồng. Sau đó, tổ tuần tra niêm phong vật chứng và đưa Th và C về trụ sở công an phường Thạnh Phước lập biên bản bắt người quả tang và thu giữ vật chứng, gồm: 01 Ti nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia model RM - 1187 màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280; 01 xe mô tô hiệu Citi màu nâu biển số 61F5 – 0218.

Khoảng 20 giờ 50 phút ngày 01/6/2021, T điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu xanh bạc biển số 47M7 – 0928 đi từ nhà trọ ở khu phố An Thành, phường Thái Hòa đến nhà số 719 thuộc tổ 2, khu phố Vĩnh Phước, phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, Bình Dương để gặp H mua ma túy. Khi đến nơi, T đi vào bên trong nhà gặp H hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá thì H đồng ý. Lúc này, H đi vào bên trong nhà lấy 01 Ti nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất tinh thể màu trắng bỏ vào mặt trong khẩu trang y tế rồi cuộn tròn lại. Sau đó, H cầm lấy khẩu trang y tế này đem ra để trên bàn ghế đá trong nhà của H rồi nói với T “đồ trong khẩu trang”. Nghe vậy, T cầm lấy khẩu trang bên trong có ma túy đá rồi nói với H “cho em thiếu nha, có gì em trả sau” thì H đồng ý. Sau đó, T bỏ khẩu trang có ma túy đá vào bên trong Ti quần phía trước bên trái đang mặc rồi điều khiển xe biển số 47M7 – 0928 đi về phòng trọ sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 50 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe mô tô đến đoạn đường thuộc khu phố Tân Mỹ, phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an thuộc Phòng C sát phòng chống tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Dương phối hợp với Công an thị xã Tân Uyên và Công an phường Thái Hòa đang tiến hành tuần tra vũ trang trên địa bàn phường Thái Hòa phát hiện T có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe để kiểm tra hành chính. Khi kiểm tra phát hiện bên trong Ti quần phía trước bên trái T đang mặc có Ti nylon miệng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng. T khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy đá vừa mua của H với giá 200.000 đồng. Sau đó, tổ tuần tra niêm phong vật chứng và đưa T về trụ sở công an phường Thái Hòa lập biên bản bắt người quả tang và thu giữ vật chứng, gồm: 01 Ti nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 khẩu trang y tế; 01 xe mô tô hiệu Sirius màu xanh bạc biển số 47M7 – 0928.

Sau đó, Công an phường Thạnh Phước, Công an phường Thái Hòa lập hồ sơ ban đầu và tiến hành bàn giao Th, C và T cùng hồ sơ và vật chứng cho cơ quan C sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Trên cơ sở lời khai ban đầu của Th, C và T, Cơ quan C sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiến hành ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Lệnh khám xét khẩn cấp nhà số 719 thuộc tổ 2, khu phố Vĩnh Phước, phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương của H ở và thu giữ: 01 Ti nylon miệng hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 cân tiểu ly màu đen có in chữ Pocket Scale; 02 cây kéo bằng kim loại; 30 Ti nylon miệng kéo dính; 01 hộp nhựa màu vàng trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen model TA – 1325 màu xanh và 600.000 đồng. Th khai chất tinh thể màu trắng là ma túy đá bị cáo mua của đối tượng tên Hoàng (không rõ nhân thân lai lịch) ngày 31/5/2021 để sử dụng và bán lại cho các con nghiện.

Ngoài 02 lần bán ma túy cho Th, T ngày 01/6/2021, Trần Văn H khai nhận: Thời gian cuối tháng 5/2021 đã bán ma túy đá cho Võ Tuấn Th 02 lần, Phùng Minh C 01 lần và một số con nghiện khác. Tổng số tiền thu lời bất chính khoảng 1.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 301/MT-PC09, 302/MT-PC09 cùng ngày 10/6/2021 và 303/MT-PC09 ngày 11/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong Ti nylon miệng kéo dính thu giữ của Đỗ Văn T là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2238g; chất tinh thể màu trắng trong Ti nylon miệng kéo dính thu giữ của Võ Tuấn Th và Phùng Minh C là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2060g; chất tinh thể màu trắng trong Ti nylon miệng kéo dính thu giữ của Trần Văn H là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 7,4236g.

Xe mô tô hiệu Citi màu nâu biển số 61F5 – 0218 do ông Võ Tấn Ng là chú ruột của bị cáo Võ Tuấn Th đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 01/6/2021, ông Ng cho Th mượn xe này để đi công việc. Việc Th điều khiển xe này chở Phùng Minh C đi mua ma túy sử dụng ông Ng không biết. Xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu xanh bạc biển số 47M7 – 0928 do bà Lê Thị Cẩm Hằng đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Năm 2020, bà Hằng bán xe này cho ông Đỗ Văn V với giá 7.500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định.

Ngày 01/6/2021, ông V cho Đỗ Văn T là con trai ruột mượn xe này để đi công việc. Việc T điều khiển xe này đi mua ma túy sử dụng ông V không biết. Ngày 17/8/2021, cơ quan C sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý đồ vật tài liệu số 84 trả lại các xe trên cho ông Ng, ông V.

Cáo trạng số 174/CT-VKS.TU ngày 27/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Trần Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Phùng Minh C, Võ Tuấn Th và Đỗ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 9 đến 10 năm tù;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Võ Tuấn Th từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Minh C từ 01 năm 3 tháng đến 01 năm 6 tháng tù;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Văn T từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù;

Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Tịch thu tiêu hủy: Lượng ma túy còn lại sau giám định; 01 khẩu trang y tế; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 cân tiểu ly màu đen có in chữ Pocket Scale; 02 cây kéo bằng kim loại; 30 Ti nylon miệng kéo dính; 01 hộp nhựa màu vàng trắng; trả lại điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh model TA – 1325 cho bị cáo H, trả điện thoại di động hiệu Nokia model RM - 1187 màu đen cho bị cáo Th, trả điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen cho bị cáo C; đối với số tiền 600.000 đồng tạm giữ của bị cáo H, trong đó có 300.000 đồng là tiền bán ma túy cho bị cáo Th mà có nên đề nghị tịch thu 300.000 đồng sung ngân sách, đồng thời tuyên buộc bị cáo nộp sung ngân sách số tiền 1.000.000 đồng thu lợi bất chính, khấu trừ số tiền 300.000 đồng, bị cáo còn phải nộp thêm 700.000 đồng.

Tại phiên các tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, không có ý kiến gì tại phần tranh luận; lời nói sau cùng, các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, tỏ thái độ ăn năn, hối hận và mong muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, H đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan C sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan C sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố.

[2] Về việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng: Quá trình điều tra Cơ quan C sát điều tra đã lấy lời khai đầy đủ, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng việc xét xử vụ án, căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự H đồng xét xử xét xử vắng mặt ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

[3] Về các yếu tố cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, lời khai của các bị cáo thống nhất lời khai của các bị cáo, lời khai người làm chứng tại quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở xác định: Khoảng cuối tháng 5/2021 đến ngày 01/6/2021 tại nhà số 719 thuộc tổ 2, khu phố Vĩnh Phước, phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Trần Văn H có hành vi nhiều lần bán ma túy loại Methamphetamine cho Võ Tuấn Th, Phùng Minh C, Đỗ Văn T, khi khám xét nơi ở của bị cáo H phát hiện 7,4236g ma túy loại Methamphetamine, bị cáo khai nhận mục đích bán lại cho các đối tượng nghiện; ngày 01/6/2021, tại khu phố Tân Lương, phường Thạnh Phước, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Võ Tuấn Th và Phùng Minh C có hành vi tàng trữ trái phép 0,2060g ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang; cùng ngày 01/6/2021 tại khu phố Tân Mỹ, phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Đỗ Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,2238g ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Thời điểm thực hiện hành vi, các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà các bị cáo cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã H, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước về lĩnh vực chất gây nghiện. Hành vi của bị cáo Trần Văn H có đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; hành vi của các bị cáo Phùng Minh C, Võ Tuấn Th, Đỗ Văn T có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất đồng phạm: Các bị cáo Phùng Minh C và Võ Tuấn Th thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, do nguồn tiền mua ma túy là của bị cáo Th, bị cáo Th cũng là người trực tiếp giao dịch mua ma túy nên chịu trách nhiệm hình sự cao hơn.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về nhân thân của bị cáo: Các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy.

[7] Về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo: Xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo trên cơ sở đã cân nhắc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: 7,6838g ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành, 01 khẩu trang y tế, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 01 cân tiểu ly màu đen có in chữ Pocket Scale, 02 cây kéo bằng kim loại, 30 Ti nylon miệng kéo dính, 01 hộp nhựa màu vàng trắng không còn giá trị sử dụng hoặc giá trị không đáng kể, cần tịch thu tiêu hủy; đối với điện thoại di động tạm giữ của các bị cáo không liên quan hành vi phạm tội, cần trả lại cho các bị cáo tiếp tục sử dụng; số tiền 600.000 đồng tạm giữ của bị cáo H trong đó có 300.000 đồng là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu xung ngân sách nhà nước; bị cáo H khai thu lợi bất chính số tiền 1.000.000 đồng từ việc bán ma túy, nên cần buộc bị cáo nộp sung ngân sách nhà nước và khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm giữ của bị cáo. Đối với xe mô tô biển số 61F5 – 0218 và xe mô tô biển số 47M7 – 0928, Cơ quan C sát điều tra đã xác minh làm rõ và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp quy định của pháp luật.

[9] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, các bị cáo Phùng Minh C, Võ Tuấn Th, Đỗ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự:

1.1. Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Văn H 09 (Chín) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/6/2021.

1.2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Võ Tuấn Th 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/6/2021.

1.3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Phùng Minh C 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/6/2021.

1.4. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 7,6838g ma túy còn lại sau giám định có trong các bì thư đã niêm phong có kí hiệu 301/PC09, 302/PC09, 303/PC09; 01 khẩu trang y tế; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 cân tiểu ly màu đen có in chữ Pocket Scale; 02 cây kéo bằng kim loại; 30 Ti nylon miệng kéo dính; 01 hộp nhựa màu vàng trắng.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

- Buộc bị cáo Trần Văn H nộp sung ngân sách Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng. Khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm giữ của bị cáo, bị cáo còn phải nộp 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn H: Điện thoại di động hiệu Nokia model TA – 1325 màu xanh.

- Trả lại cho bị cáo Võ Tuấn Th: Điện thoại di động hiệu Nokia model RM - 1187 màu đen.

- Trả lại cho bị cáo Phùng Minh C: Điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên)

3. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc H quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án :

Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 117/2021/HS-ST

Số hiệu:117/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về