Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 286/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 286/2020/HSST NGÀY 17/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 17/12/2020, tại trụ sở TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 302/2020/TLST- HS ngày 18/11/2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Quốc V, sinh năm 1978; Giới tính: Nam Nơi ĐKNKTT: Phòng xx, khu đô thị Đ, phường H, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn Tiến Q và bà Lê Thị Ngọc M Bị cáo có vợ là Nguyễn Thùy L, sinh năm 1986, có 01 con sinh năm 2007 Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 29/08/1996, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích” ( bản án số 443/HSST). Đã chấp hành xong các quyết định của bản án.

Bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 30/05/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 3058V1/24 - Có mặt

2. Võ Trung K, sinh năm 1978; Giới tính: Nam Nơi ĐKNKTT: Xóm 3, tổ dân phố N, phường Đ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Võ Văn K và bà Trần Thị Đ Bị cáo có vợ là Trần Minh H, có 01 con sinh năm 2012 Tiền án: Có 01 tiền án, tại bản án số 204/2016/HSST ngày 12/04/2016 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội tuyên phạt 40 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại 12/01/2019.

Tiền sự: Không Nhân thân: Tại bản án hình sự số 216/1998/HSST ngày 10/07/1998 của TAND quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”.

Tại bản án hình sự số 128/1998/HSST ngày 30/11/2000 của TAND quận Cầu Giấy, Hà Nội xử phạt phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt của bản án số 216 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt bị cáo 30 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 42 tháng tù. Ra trại ngày 20/10/2002.

Ngày 07/03/1999, Cai nghiện bắt buộc tại tại Trung tâm 06 Hà Nội trong thời hạn 03 tháng.

Ngày 15/12/2008, Cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội số 1 Hà Nội trong thời gian 24 tháng.

Bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 18/06/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 4436V1/21 - Có mặt

3. Đoàn Ngọc H, sinh năm 1987; Giới tính: Nữ Nơi ĐKNKTT: Số 21 CL3, đường B, phường Cầu Dền, quận Hai bà Trưng, thành phố Hà Nội.

Nơi cư trú: Số 273 phố H, phường HVT, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Đoàn Chí D và bà Nguyễn Thị N Bị cáo có chồng là Nguyễn Thế P, sinh năm 1983 (đã ly hôn), có 03 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2015.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 144 ngày 08/09/2011 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 30/05/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 3032V1/M1A - Có mặt

4. Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1994; Giới tính: Nam Nơi ĐKNKTT: Số 74 phố H, phường Đ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Nơi cư trú: Số 505 phố M, phường V, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn Mạnh C và bà Nguyễn Thị Thu H Bị cáo có vợ là Nguyễn Phương A, sinh năm 1994, có 01 con sinh năm 2019 Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 29/05/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 3058V1/24 – Có mặt

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn A – Luật sư Lê Sỹ H – Công ty luật TNHH Lê Hòe và cộng sự - Đoàn Luật sư Hà Nội – Có mặt.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan:

1. Chị Nguyễn Phương A, sinh năm 1994 Nơi ĐKNKTT: Số 74 phố H, phường Đ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội – Có mặt

2. Ngân hàng TMCP Đông Nam Á Địa chỉ: số 25 đường T, phường P, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Kim Dung, sinh năm 1980 Địa chỉ: Tổ 1, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội – Vắng mặt

3. Chị Nguyễn Thùy L, sinh năm 1986 Địa chỉ: Phòng 609 nhà G Đền Lừ 1, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo bị VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào tối ngày 28/5/2020, thông qua mạng xã hội zalo, Nguyễn Tuấn Anh có quen một người phụ nữ có tài khoản Zalo là “Ly babier”. Trong khi nói chuyện người phụ nữ này rủ Tuấn Anh mua ma túy đá mang xuống khu vực đường Trần Văn Lai, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để cùng sử dụng. Khoảng 01 giờ sáng ngày 29/5/2020, Tuấn Anh gọi điện cho Đoàn Ngọc Hoa hỏi mua 300.000đ ma túy đá, Hoa đồng ý bán và hẹn Tuấn Anh đến số 273 Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội để giao dịch. Tuấn Anh điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Ford Ecosport, BKS: 30G- 06501 đến địa điểm trên và gặp Hoa, tại đây Hoa bán cho Tuấn Anh 01 ma túy đá với giá 300.000đ. Tuấn Anh hẹn sẽ chuyển tiền mua ma túy cho Hoa qua ví điện tử MoMo tuy nhiên Tuấn Anh vẫn chưa thanh toán số tiền trên. Sau khi mua được ma túy Tuấn Anh điều khiển xe ô tô đến trước phòng tập thể hình Tuấn Vũ trên đường Trần Văn Lai, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm để gặp “Ly babier” thì bị tổ công tác Công an phường Xuân Phương phát hiện, bắt giữ cùng vật chứng.

Đoàn Ngọc Hoa quen biết với Nguyễn Quốc Việt qua bạn bè xã hội giới thiệu và biết Việt có bán ma túy đá. Ngày 21/05/2020 Hoa gọi điện cho Việt hỏi mua 05 gam ma túy đá, Việt đồng ý và nói khi nào có ma túy sẽ giao trực tiếp đến cho Hoa. Chiều tối ngày 21/05/2020, Việt mang ma túy đến số 273 Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội bán cho Hoa với giá 2.200.000đ. Sau khi mua được ma túy, Hoa lấy một ít ra sử dụng, phần còn lại Hoa chia nhỏ ra để khi có khách hỏi sẽ bán kiếm lời. Khám xét nhà Hoa, Cơ quan điều tra thu giữ 0,541 gam ma túy loại Methamphetamine cùng một số vật chứng.

Trưa ngày 29/05/2020, Nguyễn Quốc Việt gọi điện cho Võ Trung Kiên hỏi mua 10 gam ma túy đá. Kiên báo giá 3.400.000đ và cùng nhau thoả thuận giao dịch tại nhà trọ của Kiên tại phòng 2207 tòa nhà CT2, khu đô thị EcoGreen, Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội. Tại đây Kiên giao cho Việt 02 túi nilon màu trắng kích thước 4x6cm được bọc trong tờ giấy ăn bên trong chứa ma túy đá tại phòng ngủ thứ 2 bên trái của nhà Kiên (Kiên thu lợi 200.000đ). Sau khi mua được ma tuý của Kiên, Nguyễn Quốc Việt mang đến 273 Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai để bán cho khách thì bị Cơ quan điều tra triệu tập vì có liên quan đến Đoàn Ngọc Hoa và bị phát hiện thu giữ số ma tuý trên. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Quốc Việt, Cơ quan điều tra thu giữ 4,833 gam ma tuý loại Methamphetamine cùng một số vật chứng khác.

Tại Cơ quan điều tra Võ Trung Kiên, Nguyễn Quốc Việt, Đoàn Ngọc Hoa, Nguyễn Tuấn Anh đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Nguyễn Quốc Việt khai đã mua ma tuý của Võ Trung Kiên 3 lần vào các ngày 21/05/2020, 28/05/2020 và ngày 29/05/2020. Tuy nhiên, Võ Trung Kiên chỉ thừa nhận bán ma túy đá cho Việt vào ngày 29/05/2020 tại phòng 2207 tòa nhà CT2, khu đô thị EcoGreen, Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã tiến hành đối chất giữa Việt và Kiên, nhưng cả hai đều giữ nguyên lời khai của mình. Ngoài lời khai của Việt, không còn tài liệu nào khác để chứng minh Kiên đã bán ma tuý cho Việt 03 lần (như Việt khai). Do đó, không đủ căn cứ xác định Kiên đã bán ma túy cho Việt vào ngày 21 và 28/05/2020 như Việt khai.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Tuấn Anh:

+ 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma tuý;

+ 01 xe ô tô nhãn hiệu Ford Ecosport, gắn BKS: 30G-06501;

+ 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max gắn sim số: 0971.364.444.

Thu giữ của Đoàn Ngọc Hoa:

+ 01 gói nilon màu trắng kích thước khoảng (2x3)cm bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma tuý;

+ 01 cân điện tử màu trắng có dính các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma tuý;

+ 05 túi nilon bên trong mỗi túi đều dính hạt tinh thể màu trắng nghi là ma tuý;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng lắp sim số 0967886492;

Thu giữ của Nguyễn Quốc Việt:

+ 02 túi nilon màu trắng kích thước mỗi túi khoảng (6x4)cm bên trong chứa hạt tinh thể màu trắng;

+ 01 gói nilon màu trắng kích thước khoảng (2x3)cm bên trong chứa 13 viên nén hình tròn màu đỏ nghi là ma tuý;

+ 01 xe máy hiệu Wave Anpha BKS: 29H1-79.360;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus lắp sim số 0943.596.724;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen lắp sim số 0916.553.386;

Thu giữ của Võ Trung Kiên:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Black Berry màu đen lắp sim số 0943.596.724 + 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng, số Imei: PNPZ03QRN6YK lắp sim số 0931.339.993;

+ 1.200.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

Tại bản kết luận giám định số 4275/KLGĐ- PC09 ngày 04/6/2020 và số 4305/KLGĐ- PC09 ngày 06/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định:

+ Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói ni lông màu trắng (thu giữ của Nguyễn Tuấn Anh) là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,312 gam;

+ Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói ni lông màu trắng (thu giữ của Đoàn Ngọc Hoa) là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,541 gam. 05 túi nilong màu trắng và 01 cân điện tử (thu giữ của Đoàn Ngọc Hoa trong quá trình khám xét) đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

+ Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi ni lông màu trắng (thu giữ của Nguyễn Quốc Việt) đều là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 10,052 gam; 13 viên nén hình tròn màu đỏ (thu giữ trong quá trình khám xét) đều là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 1,292 gam; tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilong (thu giữ trong quá trình khám xét) đều là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 3,541 gam; Cân điện tử màu bạc có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 294/CT-VKS ngày 10/11/2020 của VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Quốc Việt, Võ Trung Kiên và Đoàn Ngọc Hoa về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Trong đó: Truy tố Nguyễn Quốc Việt theo điểm b, i khoản 2 điều 251 Bộ luật Hình sự; Truy tố Võ Trung Kiên theo điểm i khoản 2 Điều 251 BLHS; Truy tố Đoàn Ngọc Hoa theo khoản 1 điều 251 BLHS; Truy tố Nguyễn Tuấn Anh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Kết thúc phần tranh tụng; Tại phần tranh luận, đại diện VKS đọc bản luận tội đối với các bị cáo. Nội dung bản luận tội đã phân tích nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với mỗi bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị HĐXX tuyên bố Nguyễn Quốc Việt, Võ Trung Kiên và Đoàn Ngọc Hoa phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Tuấn Anh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Rút một phần nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Quốc Việt với tình tiết “Phạm tội từ 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS.

Về Điều luật và hình phạt đề nghị:

Bị cáo Việt: Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS; Bị cáo Kiên áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Quốc Việt từ 11 đến 12 năm tù; Võ Trung Kiên từ 09 đến 10 năm tù.

Bị cáo Hoa: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS;

Xử phạt: Đoàn Ngọc Hoa từ 42 đến 48 tháng tù.

Bị cáo Tuấn Anh: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS;

Xử phạt: Nguyễn Tuấn Anh 24 đến 30 tháng tù Miễn hình phạt bổ sung cho cả 04 bị cáo Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng lắp sim số 0967886492;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen lắp sim số 0916.553.386;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Black Berry màu đen lắp sim số 0943.596.724 + 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max gắn sim số: 0971.364.444.

+ 1.200.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

Trả lại bị cáo Nguyễn Tuấn Anh 01 xe ô tô nhãn hiệu Ford Ecosport, gắn BKS: 30G-06501;

Trả lại bị có Việt: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus lắp sim số 0943.596.724;

Trả lại bị cáo Kiên: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng, số Imei: PNPZ03QRN6YK lắp sim số 0931.339.993;

Trả lại chị Nguyễn Thùy Linh: 01 xe máy hiệu Wave Anpha BKS: 29H1-79.360;

Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định và vật chứng có dính ma túy được đựng trong 07 bì thư niêm phong, trong đó 01 bì thư có chữ ký của Nguyễn Tuấn Anh và giám định viên; 01 bì thư có chữ ký của Đoàn Ngọc Hoa và giám định viên (gồm ma túy còn lại sau giám định, 01 cân điện tử, 05 túi nilon dính ma túy); 03 bì thư có chữ ký của Nguyễn Quốc Việt và giám định viên; 02 bì thư có chữ ký của Nguyễn Thế Phong và giám định viên;

Buộc các bị cáo nộp lại số tiền do phạm tội mà có và sử dụng vào việc phạm tội sung vào công quỹ Nhà nước:

+ Bị cáo Việt nộp lại 2.200.000đ

+ Bị cáo Kiên nộp lại 3.400.000đ

+ Bị cáo Tuấn Anh nộp lại 300.000đ

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng số 238 ngày 28/9/2020 của VKSND quận nam Từ Liêm đã truy tố các bị cáo. Các bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố và lời luận tội của đại diện VKS đối với các bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan. Các bị cáo không tranh luận với lời luận tội của vị đại diện VKS. Tại lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư Hòe bào chữa cho bị cáo Tuấn Anh: Về diễn biến hành vi phạm tội, điểm khoản, Điều luật mà đại diện VKS truy tố đối với bị cáo Tuấn Anh tôi không có ý kiến gì. Nhất trí với nội dung bản luận tội đề đề xuất xử lý vật chứng liên quan đến bị cáo Tuấn Anh. Riêng về các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt đề nghị, luật sư có ý kiến như sau:

+ Bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng trong vụ án này nên đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS;

+ Bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình (điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, VKS đã đề nghị).

+ Sau khi bị cáo bị bắt, bị cáo đã khai rõ địa chỉ bị cáo Hoa đã bán ma túy cho bị cáo, nhờ đó mà Cơ quan điều tra mở rộng điều tra vụ án truy tố thêm các bị cáo Hoa, Việt, Kiên nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ “Lập công chuộc tội” quy định tại điểm u khoản 1 Điều 51 BLHS.

Từ đó vị luật sư đề nghị áp dụng Điều 54 BLHS để xét xử bị cáo ở dưới mức thấp nhất của khung hình phạt truy tố.

Viện kiểm sát đối đáp: Bị cáo lần đầu phạm tội và khai báo thành khẩn và giúp mở rộng vụ án đại diện VKS nhất trí đề nghị áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS, các tình tiết khác đề nghị áp dụng là không chính xác; Còn mức án đề nghị là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên VKS đề nghị giữ nguyên.

Vị luật sư không đối đáp lại, đề nghị HĐXX xem xét.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan: Chị Phương Anh và chị Thùy Linh trình bày:

Chị Phương Anh: Chiếc xe ô tô mà bị cáo Tuấn Anh đi mua ma túy sử dụng là tài sản chung của vợ chồng, hiện đang thế chấp tại Ngân hàng để vay vốn. Bị cáo Tuấn Anh sử dụng để mua ma tuý chị không biết vì xe chỉ sử dụng làm phương tiện đi lại. Nay chị đề nghị được xin lại.

Chị Thùy Linh: Chiếc xe máy hiệu Wave anpha BKS 29H-79360 là tài sản do chị bỏ tiền ra mua, bị cáo Việt sử dụng làm phương tiện đi lại, chị không biết sử dụng vào việc có liên quan đến tội phạm. Nay chị đề nghị xin lại để làm phương tiện đi lại.

Đại diện Ngân hàng TMCP Đông Nam Á vắng mặt, đã có lời khai trong giai đoạn điều tra thể hiện: Chiếc xe ô tô hiệu Ford Ecosport BKS 30G-06501 là tài sản thế chấp bảo lãnh cho khoản vay của vợ chồng bị cáo Tuấn Anh và chị Phương Anh. Do là tài sản lưu động nên Ngân hàng vẫn giao cho vợ chồng quản lý sử dụng. Đề nghị trả lại cho bị cáo Tuấn Anh tài sản trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, HĐXX nhận định: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ và lời khai trước đây của bị cáo có tại hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Ngày 29/05/2020 Đoàn Ngọc Hoa cất giấu trái phép 0,853 gam ma tuý loại Methamphetamin tại số 273 Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội, mục đích để bán cho các con nghiện kiếm lời. Khoảng 01 giờ cùng ngày Đoàn Ngọc Hoa đã bán trái phép 0,312 gam Methamphetamin cho Nguyễn Tuấn Anh. Khi Tuấn Anh đang mang ma tuý đến khu vực đường Trần Văn Lai, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để cùng bạn sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Ngày 21/05/2020, tại số 273 Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội, Nguyễn Quốc Việt có hành vi bán trái phép 0,853 gam ma tuý loại Methamphetamine cho Đoàn Ngọc Hoa. Ngày 29/05/2020, Nguyễn Quốc Việt đã mua được 01 gói ma tuý loại Methamphetamine có khối lượng 10,052 gam của Võ Trung Kiên tại phòng trọ số 2207 tòa nhà CT2, khu đô thị Ecogreen, xã Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội. Khi Việt đang đứng đợi để bán cho các con nghiện thì bị bắt giữ. Ngoài ra Nguyễn Quốc Việt còn cất giấu tại chỗ ở (Phòng 609 Khu đô thị Đền Lừ 1, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội) 4,833 gam ma tuý Methamphetamine mục đích để bán cho các con nghiện. Như vậy, tổng số ma túy mà Nguyễn Quốc Việt cất giấu nhằm mục đích bán trái phép là: 10,052 gam + 4,833 gam + 0,853 gam = 15,738 gam ma tuý loại Methamphetamine.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Quốc Việt, Võ Trung Kiên và Đoàn Ngọc Hoa đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 BLHS.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn Anh đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Xét cáo trạng truy tố và lời trình bày luận tội của đại diện VKS tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Là nguyên nhân làm phát sinh một số loại tội phạm khác. Trực tiếp hủy hoại sức khỏe đối với người sử dụng, gây mất trật tự trị an, làm băng hoại đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân trên địa bàn nơi xảy ra tội phạm.

Xét đây là vụ án có nhiều bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn. Cả 04 bị cáo đều là những người sử dụng ma túy tổng hợp. Việc các bị cáo mua, bán ma túy nhằm mục đích dụng một phần, phần còn lại bán cho các đối tượng nghiện ma túy để lấy tiền mua ma túy cho những lần tiếp theo. Bị cáo Tuấn Anh nghiện ma túy nên tàng trữ ma túy để sử dụng.

Về nhân thân của các bị cáo:

Bị cáo Việt có nhân thân xấu, đã bị TAND quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích” vào năm 1996.

Bị cáo Kiên có nhân thân xấu, 02 lần bị TAND quận Cầu Giấy và TAND quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt về các tội “Cố ý gây thương tích” vào năm 1998 và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” vào năm 2000. Tính đến thời điểm phạm tội bị cáo còn có 01 tiền án do TAND quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử phạt 40 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” vào ngày 12/4/2016. Do vậy, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm.

Bị cáo Hoa có nhân thân xấu, vào năm 2011 bị TAND quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xét cần xử phạt mỗi bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo đã gây ra. Cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.HĐXX áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo Tuấn Anh lần đầu phạm tội nhưng phạm tội nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo chính xác về địa điểm người bán ma túy cho bị cáo, phần nào giúp cơ quan điều tra mở rộng vụ án khởi tố, truy tố thêm một số bị cáo mua bán trái phép chất ma túy. HĐXX đánh giá và xét cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Ý kiến bào chữa của vị luật sư đề nghị xem xét các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, u khoản 1 Điều 51 BLHS là không chính xác.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo phạm tội là đều là những người sử dụng ma túy, không có việc làm, không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung “Phạt tiền” cho các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của các bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng lắp sim số 0967886492;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen lắp sim số 0916.553.386;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Black Berry màu đen lắp sim số 0943.596.724 + 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max gắn sim số: 0971.364.444.

+ 1.200.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

Trả lại lại bị cáo Nguyễn Tuấn Anh và chị Nguyễn Phương Anh 01 xe ô tô nhãn hiệu Ford Ecosport, gắn BKS: 30G-06501;

Trả lại bị cáo Nguyễn Quốc Việt: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus lắp sim số 0943.596.724;

Trả lại bị cáo Võ Trung Kiên: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng, số Imei: PNPZ03QRN6YK lắp sim số 0931.339.993;

Trả lại chị Nguyễn Thùy Linh: 01 xe máy hiệu Wave Anpha BKS: 29H1-79.360;

Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định và vật chứng có dính ma túy được đựng trong 07 bì thư niêm phong, trong đó 01 bì thư có chữ ký của Nguyễn Tuấn Anh và giám định viên; 01 bì thư có chữ ký của Đoàn Ngọc Hoa và giám định viên; 03 bì thư có chữ ký của Nguyễn Quốc Việt và giám định viên; 02 bì thư có chữ ký của Nguyễn Thế Phong và giám định viên;

Buộc các bị cáo nộp lại số tiền do phạm tội mà có và sử dụng vào việc phạm tội sung vào công quỹ Nhà nước:

+ Bị cáo Việt nộp lại 2.200.000đ + Bị cáo Kiên nộp lại 3.400.000đ

+ Bị cáo Tuấn Anh nộp lại 300.000đ Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quốc Việt, Võ Trung Kiên và Đoàn Ngọc Hoa phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Tuấn Anh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS; Bị cáo Kiên áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Xử phạt:

1. Nguyễn Quốc Việt 10 (mười) năm tù thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2020.

2. Võ Trung Kiên 09 (chín) năm thời hạn tù tính từ ngày 18/6/2020.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS;

Xử phạt: Đoàn Ngọc Hoa 36 (ba sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2020.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS;

Xử phạt: Nguyễn Tuấn Anh 12 (mười hai) tháng thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2020.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo Áp dụng Điều 329 BLTTHS, tạm giam mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTDS.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng lắp sim số 0967886492;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen lắp sim số 0916.553.386;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Black Berry màu đen lắp sim số 0943.596.724 + 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max gắn sim số: 0971.364.444.

+ 1.200.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

Trả lại lại bị cáo Nguyễn Tuấn Anh và chị Nguyễn Phương Anh 01 xe ô tô nhãn hiệu Ford Ecosport, gắn BKS: 30G-06501;

Trả lại bị có Việt: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus lắp sim số 0943.596.724;

Trả lại bị cáo Kiên: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng, số Imei: PNPZ03QRN6YK lắp sim số 0931.339.993;

Trả lại chị Nguyễn Thùy Linh: 01 xe máy hiệu Wave Anpha BKS: 29H1-79.360;

Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định và vật chứng có dính ma túy được đựng trong 07 bì thư niêm phong, trong đó 01 bì thư có chữ ký của Nguyễn Tuấn Anh và giám định viên; 01 bì thư có chữ ký của Đoàn Ngọc Hoa và giám định viên; 03 bì thư có chữ ký của Nguyễn Quốc Việt và giám định viên; 02 bì thư có chữ ký của Nguyễn Thế Phong và giám định viên;

(Theo đúng như biên bản giao nhận vật chứng số 57 ngày 17/11/2020 giữa Cơ quan điều tra và chị cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, Hà Nội).

Số tiền đã nộp ngày 10/11/2020 vào tài khoản số 3949 tại Kho bạc Nhà nước Nam Từ Liêm của Chi cục Thi hành án quận Nam Từ Liêm).

Buộc các bị cáo nộp lại số tiền do phạm tội mà có và sử dụng vào việc phạm tội sung vào công quỹ Nhà nước:

+ Bị cáo Việt nộp lại 2.200.000đ

+ Bị cáo Kiên nộp lại 3.400.000đ

+ Bị cáo Tuấn Anh nộp lại 300.000đ Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 286/2020/HSST

Số hiệu:286/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về