Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 86/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 86/2019/HS-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019 đối với:

Bị cáo Vũ Thị H, sinh ngày 02/01/1986 tại xã C, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã M, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Tổ 10, thị trấn C1, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn S, sinh năm 1961 và bà: Phan Thị T1, sinh năm 1964; có chồng đã ly hôn và 03 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16/7/2019 đến ngày 19/7/2019 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hữu K, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn N, xã L, huyện Q, tỉnh Thái Bình (vắng mặt) Người chứng kiến:

1. Anh Lại Văn Th, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn H1, xã M, huyện Q, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)

2. Ông Trần Văn T2, sinh năm 1962; nơi cư trú: Tổ 09, thị trấn C1, huyện Q, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)

 3. Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1949; nơi cư trú: Tổ 10, thị trấn C1, huyện Q, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)

4. Anh Bùi Quốc H2, sinh năm 1980; nơi cư trú: Khu 3, thị trấn L1, huyện L1, Thành phố Hải Phòng (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 16/7/2019, tại phòng trọ của nhà chị Nguyễn Thị T3 ở tổ 10, thị trấn C1, huyện Q, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang Vũ Thị H đang bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Hữu K. Tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên trái phía trước Nguyễn Hữu K đang mặc 01 túi nilon trong suốt chứa các hạt tinh thể trong suốt, Nguyễn Hữu K khai đó là túi ma túy đá vừa mua của Vũ Thị H với giá 300.000 đồng để sử dụng cho bản thân (Niêm phong ký hiệu M1); thu giữ tại túi quần bên trái phía sau Vũ Thị H đang mặc 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, Vũ Thị H khai đó là tiền vừa bán túi ma túy đá cho Nguyễn Hữu K với giá 300.000 đồng nhưng chưa kịp trả lại 200.000 đồng tiền thừa thì bị bắt.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Thị H tại phòng trọ nêu trên thu giữ 21 túi nilon đều chứa các hạt tinh thể trong suốt. Vũ Thị H khai đó là ma túy đá Vũ Thị H cất giấu để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời (Niêm phong ký hiệu M2); khám xét khẩn cấp nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của Vũ Thị H không phát hiện, thu giữ gì.

Bản kết luận giám định số 315/KLGĐ-PC09 ngày 17/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0452 gam; Vật chứng M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,4658 gam.

Methamphetamine STT: 323, danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.” Tại phiên tòa bị cáo khai: Bản thân bị cáo là người sử dụng chất ma túy đá. Ngày 15/7/2019, bị cáo đi xe khách ra khu vực đường tàu thuộc Quận L2, Thành phố Hải Phòng mua của một người đàn ông không quen biết 22 túi ma túy đá với giá 4.400.000 đồng mang về phòng trọ thuộc tổ 10, thị trấn C1, huyện Q giấu vào gầm giường ngủ. Sáng ngày 16/7/2019, bị cáo lấy ra 01 túi bỏ vào túi quần đang mặc. Khoảng 09 giờ 20 phút cùng ngày, Nguyễn Hữu K và Lại Văn Th đến phòng trọ gặp bị cáo, Nguyễn Hữu K hỏi: “Có ma túy đá bán không, bán cho 300.000 đồng”, bị cáo nói: “Mày đưa tiền đây”. Nguyễn Hữu K đưa cho bị cáo 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, bị cáo nhận tiền và lấy trong túi quần đang mặc 01 túi ma túy đá đưa cho K, K nhận gói ma túy đá bỏ vào túi quần phía trước đang mặc, bị cáo chưa kịp trả lại K 200.000 đồng thì bị bắt quả tang.

Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Hữu K có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Do nghiện ma túy nên sáng ngày 16/7/2019 anh có gặp và nhờ anh Lại Văn Th chở lên thị trấn Quỳnh Côi để mua ma túy sử dụng, nhưng chỉ nói với anh Th cho đi nhờ xe. Anh mua của Vũ Thị H 300.000 đồng được 01 gói ma túy đá và đưa cho Vũ Thị H 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, anh chưa kịp nhận tiền trả lại thì bắt quả tang; nay anh không xin lại số tiền 200.000 đồng mà bị cáo Vũ Thị H chưa trả lại anh. Khi anh mua ma túy của Vũ Thị H, anh Th đứng phía ngoài không biết việc mua bán ma túy.

Những người chứng kiến đều khai: Sáng ngày 16/7/2019 được mời đến nhà trọ của Vũ Thị H ở tổ 10, thị trấn C1, huyện Q chứng kiến việc Công an huyện Quỳnh Phụ kiểm tra người và quản lý của Nguyễn Hữu K 01 gói nilon chứa các hạt tinh thể trong suốt nghi là ma túy đá, thu giữ của Hồng 500.000 đồng. Công an huyện Quỳnh Phụ lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Biên bản khám xét nơi ở của Vũ Thị H do Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 14 giờ 30 phút ngày 16/7/2019 có nội dung: Quản lý tại gầm giường phòng ngủ 21 túi nilon trong suốt (14 túi có nẹp miệng túi màu xanh, kích thước (2,5x2,5)cm; 07 túi có nẹp miệng túi màu đỏ, kích thước (3x2) cm) bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt dạng cục.

Bản cáo trạng số 90/CT-VKSQP ngày 14/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Vũ Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Vũ Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/7/2019; phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu hủy vật chứng là Methamphetamine thu được của bị cáo trong bao niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định; tịch thu 300.000 đồng thu của bị cáo và 200.000 đồng của Nguyễn Hữu K (200.000 đồng là tiền thu từ bị cáo, bị cáo chưa trả lại khi bán ma túy cho K, K đề nghị không xin lại) để nộp vào ngân sách Nhà nước. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng, nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, rất hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận do có sử dụng ma túy đá nên đã đi mua ma túy mục đích sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời; ngày 16/7/2019, khi vừa bán ma túy cho Nguyễn Hữu K lấy 300.000 đồng thì bị bắt quả tang. Bị cáo đã đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng do Công an huyện Quỳnh Phụ lập ngày 16/7/2019; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người chứng kiến; bản kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 16/7/2019, tại phòng trọ thuộc tổ 10, thị trấn C1, huyện Q, tỉnh Thái Bình, Vũ Thị H đã có hành vi bán trái phép 01 túi Methamphetamine có khối lượng 0,0452 gam cho Nguyễn Hữu K lấy 300.000 đồng, bị Công an huyện Quỳnh Phụ bắt quả tang. Ngoài ra, Vũ Thị H còn tàng trữ trái phép tại phòng trọ 21 túi Methamphetamine có khối lượng 1,4658 gam với mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Tổng khối lượng Methamphetamine Vũ Thị H bán trái phép và tàng trữ trái phép để bán kiếm lời là 1,5110 gam (Một phảy năm nghìn một trăm mười gam). Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251 Bộ luật hình sự. Tội mua bán trái phép chất ma túy:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Bị cáo là người sử dụng chất ma túy, mua ma túy về không chỉ để sử dụng mà còn bán kiếm lời. Bị cáo hiểu tệ nạn ma túy đang là mối quan tâm, nhức nhối của toàn xã hội, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, làm suy thoái giống nòi, là căn nguyên phát sinh các loại tội phạm khác nhưng vẫn phạm tội. Hành vi của bị cáo đã reo rắc cái chết trắng cho con người, làm ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và được hưởng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng, xét thấy tội phạm bị cáo thực hiện là tội nghiêm trọng, vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tù có thời hạn với mức án tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra, như mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị để pháp luật cải tạo, giáo dục bị cáo riêng và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy bị cáo phạm tội với mục đích lợi nhuận, do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để bị cáo thấy được ý nghĩa của đồng tiền có được từ lao động chân chính.

[7] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo, do đó cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[8] Trong vụ án này Nguyễn Hữu K đã có hành vi mua trái phép 01 gói Methamphetamin của bị cáo với mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng K chưa có tiền án, tiền sự về các hành vi liên quan đến ma túy, khối lượng ma túy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó Công an huyện Quỳnh Phụ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với K là đúng quy định của pháp luật; đối với anh Lại Văn Th là người Nguyễn Văn K nhờ chở đi mua ma túy, anh Bùi Quốc H2 là người sống cùng phòng trọ với bị cáo Vũ Thị H nhưng anh Th và anh Hùng không biết việc bị cáo và K mua bán ma túy, do đó cơ quan điều tra không xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Hữu K 01 túi nilon trong suốt chứa các hạt tinh thể trong suốt và thu của bị cáo 21 túi nilon đều chứa các hạt tinh thể trong suốt, kết quả giám định kết luận là ma túy loại Methamphetamine và hoàn trả mẫu vật sau giám định. Xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, do đó cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Đối với tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng thu của bị cáo Vũ Thị H là tiền bị cáo nhận của Nguyễn Hữu K, trong đó 300.000 đồng là tiền bị cáo bán ma túy cho K, đây là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu để nộp vào ngân sách Nhà nước; số tiền còn lại 200.000 đồng lẽ ra bị cáo phải trả lại K, nhưng bị cáo chưa kịp trả lại thì bị bắt, nay Nguyễn Hữu K có ý kiến không xin lại 200.000 đồng trên, do đó cần thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền này.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” - Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo Vũ Thị H 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 7 năm 2019.

Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, phạt bổ sung bị cáo Vũ Thị H 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,0254 gam (vật chứng M1) và 1,4319 gam (vật chứng M2) cùng toàn bộ bao gói trong bao niêm phong hoàn trả mẫu vật giám định số 315/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; tịch thu 300.000 đồng của bị cáo do bán ma túy mà có và thu 200.000 đồng tiền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị không xin lại, tổng cộng là 500.000 đồng (cơ quan Điều tra đã quản lý của bị cáo) để nộp vào ngân sách Nhà nước (chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 14/10/2019).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo Vũ Thị H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 86/2019/HS-ST

Số hiệu:86/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về