Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 79/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 79/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh- Thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 77/2021/TLST- HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đàm Thị A, sinh năm 1972; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn X, xã Y, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đàm Văn D (Đã chết) và bà Vũ Thị D1; Có chồng là Lê Văn D2 (Đã ly hôn) và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2009; Theo danh chỉ bản số 001 của Công an huyện Đông Anh lập ngày 17/12/2020 xác định: Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020. Có mặt.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Quang B, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thôn M, xã M1, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn N, xã N1, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cac tai liêu co trong hô sơ vu an va diên biên tai phiên toa, nôi dung vu án như sau:

Hồi 21 giờ ngày 14/12/2020, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an huyện Đông Anh phối hợp cùng Công an xã Nam Hồng, Đông Anh, Hà Nội làm nhiệm vụ tại thôn Tằng My, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, phát hiện Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C đang ngồi tại cánh đồng thôn Tằng My có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện tại vị trí B và C ngồi có 03 Ci nilon màu trắng đều có kích thước khoảng (1x1) cm, 01 mảnh giấy bạc, kích thước khoảng (2x10) cm đã qua sử dụng; 01 chai nhựa trên nắp có gắn 02 ống hút bằng nhựa và 01 bật lửa ga. Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng rồi đưa Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C về trụ sở điều tra làm rõ.

Tại bản kết luận giám định số 10849/KLGĐ-PC09 ngày 23/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: 03 Ci nilon và mảnh giấy bạc đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C thừa nhận cả hai vừa sử dụng ma túy xong. Mở rộng điều tra, cơ quan điều tra xác định người đã bán ma túy cho B và C vào ngày 14/12/2020 là Đàm Thị A.

Căn cứ các tài liệu thu thập được, ngày 15/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Đông Anh đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp người, nơi ở, đồ vật, tài sản của Đàm Thị A tại thôn X, xã Y, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội.

Khám người đối với Đàm Thị A phát hiện: A đang đeo 01 Ci vải màu tím bên trong Ci có 01 Ci nilon màu trắng, kích thước khoảng (2x2) cm bên trong có 01 viên nén hình tròn màu hồng và tinh thể màu trắng đều nghi là ma túy.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của A phát hiện:

* Tại nền nhà trong phòng gần ban thờ có:

- 01 Ci nilon màu trắng, kích thước khoảng (1x1) cm bên trong có 01 viên nén hình tròn màu hồng và tinh thể màu trắng đều nghi là ma túy.

- 01 Ci nilon màu trắng, kích thước khoảng (4x7) cm bên trong có 05 Ci nilon màu trắng, đều có kích thước khoảng (1x1) cm, bên trong mỗi Ci đều chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng và tinh thể màu trắng đều nghi là ma túy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, lắp sim số:

0344871150, số Imei1: 357269094057866, số Imei2: 357269094209996.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen lắp sim số: 0862927126, số Imei vỏ máy 1: 353149111815815, số Imei vỏ máy 2: 353149112315815.

- Số tiền: 590.000 đồng.

* Dưới đệm ngủ trên giường ngủ có 01 Ci nilon màu xanh, kích thước khoảng (5x8) cm bên trong có 05 Ci nilon màu trắng, đều có kích thước khoảng (1,5x1,5) cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy.

* Dưới chiếu trúc trên giường ngủ có:

- 01 Ci nilon màu trắng, kích thước khoảng (1x1) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy.

- 01 Ci nilon màu trắng, kích thước khoảng (1x1) cm bên trong chứa 03 viên nén hình tròn màu hồng nghi là ma túy.

* Trong ngăn kéo tủ trong phòng có:

- 01 cân điện tử màu trắng, kích thước khoảng (1x7x15) cm đã qua sử dụng - 01 Ci vải nhiều màu, kích thước khoảng (10x15) cm bên trong có:

+ 01 Ci nilon màu trắng, kích thước khoảng (5x5) cm bên trong có 33 viên nén hình tròn màu hồng nghi là ma túy.

+ 01 Ci nilon màu xanh, kích thước khoảng (5x8) cm bên trong có 137 viên nén hình tròn màu hồng nghi là ma túy.

+ 01 Ci nilon màu xanh, kích thước khoảng (5x8) cm bên trong có 10 Ci nilon màu trắng, đều có kích thước khoảng (1x1) cm chưa qua sử dụng.

Lực lượng chức năng đã lập biên bản khám xét, niêm phong vật chứng rồi đưa Đàm Thị A về trụ sở điều tra làm rõ.

Tại bản kết luận giám định số 10844/KLGĐ-PC09 ngày 23/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

* Vật chứng thu giữ trong quá trình khám người:

- Tinh thể màu trắng trong 01 Ci nilon có khối lượng: 0,061 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- 01 viên nén hình tròn màu hồng trong 01 Ci Ci nilon có khối lượng: 0,101 gam là ma túy loại Methamphetamine.

* Vật chứng thu giữ trong quá trình khám xét:

- Tinh thể màu trắng trong 06 Ci nilon màu trắng có tổng khối lượng: 0,975 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- 06 viên nén hình tròn màu hồng trong 06 Ci nilon có tổng khối lượng:

0,623 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng trong 05 Ci nilon kích thước (1,5x1,5) cm có tổng khối lượng: 1,153 gam là ma túy loại Ketamine.

- Tinh thể màu trắng trong 01 Ci nilon kích thước (1x1) cm có khối lượng:

0,296 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- 173 viên nén hình tròn trong 02 Ci nilon màu trắng và 01 Ci nilon màu xanh có tổng khối lượng: 17,913 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- 01 cân điện tử màu trắng, kích thước (1x7x15) cm có dính ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 10 ngày trước khi bị bắt, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên A sử dụng điện thoại số thuê bao 0862927126 của A để gọi đến số 0772336368 của một người đàn ông tên Cường (A không biết địa chỉ chính xác) đặt vấn đề mua 10.000.000 đồng tiền ma túy “đá” và “ngựa”, Cường đồng ý. Sau đó, có một người đàn ông (A không quen biết) đến giao ma túy cho A và nhận tiền tại khu vực đê gần nhà A. Sau khi mua được ma túy, A mang về nhà chia ra nhiều gói nhỏ và cất giấu ở nhiều vị trí khác nhau ở trong nhà. Tối ngày 14/12/2020, khi A đang ở nhà thì Nguyễn Quang B đến gọi cổng. A đi ra gặp B thì thấy B đi cùng Nguyễn Văn C. Tại đây B đặt vấn đề mua của A 300.000 đồng tiền ma túy “đá” cùng 200.000 đồng tiền ma túy “ngựa” rồi đưa cho A 500.000 đồng, A đồng ý, cầm tiền và đi vào nhà. Sau đó, A quay ra đưa cho B 02 Ci nilon, trong đó một Ci chứa ma túy “đá” cùng 01 viên ma túy “ngựa” và 01 Ci chứa 01 viên ma túy “ngựa”. Tiếp đó, C tiếp tục đặt vấn đề mua của A 300.000 đồng ma Cy “đá” và “ngựa” đồng thời đưa cho A 300.000 đồng, A cầm tiền rồi tiếp tục đi vào trong nhà, một lúc sau quay ra đưa cho C 01 Ci nilon bên trong chứa ma túy “đá” và 02 viên ma túy “ngựa”. Đến ngày 15/12/2020 khi A đang ở nhà thì bị lực lượng Công an đến khám xét, bắt giữ. A khai mục đích A mua ma túy về vừa để sử dụng cho nhu cầu của bản thân và vừa bán lại cho khách có nhu cầu mua để hưởng lợi.

Giai đoạn đầu tại cơ quan triều tra, Đàm Thị A khai nhận đã bán ma túy cho B nhiều lần nhưng không nhớ thời gian cụ thể. Tuy nhiên, sau đó A thay đổi lời khai và chỉ thừa nhận tối ngày 14/12/2020 là lần đầu tiên A bán ma túy cho B và C. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C khai nhận phù hợp với lời khai của Đàm Thị A về việc mua bán ma túy vào tối ngày 14/12/2020.

Ngoài ra, B còn khai đã mua ma túy của A nhiều lần nhưng chỉ nhớ lần gần nhất là vào trưa ngày 14/12/2020, B đi một mình đến nhà A gặp và mua của A 300.000 đồng tiền ma túy đá và 01 viên ma túy ngựa. Về nội dung trên, ngoài lời khai của B, không còn tài liệu nào khác chứng minh nên không đủ căn cứ xác định A bán ma túy nhiều lần cho B.

Đối với người tên là “Cường” mà A khai là người bán ma túy cho A và người đàn ông đến giao ma túy cho A: Do A khai không rõ lai lịch cụ thể của những người này nên không có căn cứ điều tra làm rõ.

Ngày 28/01/2021 Công an huyện Đông Anh ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức Cảnh cáo đối với Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 19,969 gam ma túy Methamphetamine (Đã trích 1,1 gam làm mẫu giám định) và 1,153 gam ma túy Ketamine (Đã trích 0,112 gam làm mẫu giám định); 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 cân điện tử; 01 Ci vải màu tím; 01 Ci vải nhiều màu; 01 Ci nilon màu xanh, bên trong có 10 Ci nilon màu trắng; 01 điện thoại di động Iphone, lắp sim số: 0344871150; 01 điện thoại di động Nokia, lắp sim số: 0862927126 và 590.000 đồng thu giữ của Đàm Thị A; 01 phong bì niêm phong bên trong có 03 Ci nilon và 01 mảnh giấy bạc; 01 bật lửa ga và 01 chai nhựa màu trắng, trên nắp có gắn 02 ống hút bằng nhựa thu giữ của Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C là vật chứng của vụ án cần chuyển Tòa án Đông Anh giải quyết theo thẩm quyền.

Cáo trạng sô 75/CT-VKSĐA ngay 19/4/2021 của Viện trưởng Viên kiêm sát nhân dân huyện Đông Anh quyêt đinh truy tô: Đàm Thị A về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo Điểm c, p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo Đàm Thị A khai nhận tội và thừa nhận toàn bộ hành vi bán ma túy cho Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C vào ngày 14/12/2020. Bị cáo xác định đây lần đầu tiên A bán ma túy cho B và C. Số ma túy còn lại thu giữ của bị cáo trong quá trình khám xét bị cáo xác định mua ma túy về vừa để sử dụng đáp ứng nhu cầu của bản thân, vừa để bán lại cho khách có nhu cầu để hưởng lợi.

Bị cáo nhận thức được các hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn, hối cải và mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật để bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành người tốt cho xã hội.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, xác định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Xử phạt : Đàm Thị A từ 11 năm đến 11 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Vê xư ly vât chưng:

+ Tịch thu , tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 19,969 gam ma túy Methamphetamine (Đã trích 1,1 gam làm mẫu giám định) và 1,153 gam ma túy Ketamine (Đã trích 0,112 gam làm mẫu giám định); 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 cân điện tử; 01 Ci vải màu tím; 01 Ci vải nhiều màu; 01 Ci nilon màu xanh, bên trong có 10 Ci nilon màu trắng; 02 sim số: 0344871150 và 0862927126 thu giữ của Đàm Thị A; 01 phong bì niêm phong bên trong có 03 Ci nilon và 01 mảnh giấy bạc; 01 bật lửa ga và 01 chai nhựa màu trắng, trên nắp có gắn 02 ống hút bằng nhựa thu giữ của Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C do là những vật Nhà nước cấm lưu hành và những vật không còn giá trị sử dụng;

+ Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone; 01 điện thoại di động Nokia và số tiền 590.000 đồng thu giữ của Đàm Thị A do liên quan đến hành vi phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi và tội danh của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng, Kết luận giám định, các tài liệu, chứng cứ khác tại cơ quan điều tra và kết quả tranh tụng công khai tại phiên toà. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 20 giờ ngày 14/12/2020, bị cáo Đàm Thị A đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C tại thôn X, xã Y, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Ngoài ra, bị cáo A còn tàng trữ trái phép 19,969 gam ma túy Methamphetamine và 1,153 gam ma túy Ketamine. Bị cáo A khai mục đích tàng trữ ma túy vừa để sử dụng cho bản thân và vừa bán cho khách để hưởng lợi nên xác định toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo có mục đích để mua bán trái phép.

Do đó, hành vi của bị cáo phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

Tổng khối lượng của các chất ma túy thu giữ của bị cáo được xác định như sau: Do các chất ma túy (Ketamine, Methamphetamine) không được quy định trong cùng một điểm thuộc các khoản của Điều 251 Bộ luật hình sự nên căn cứ vào Khoản 3 Điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự xác định: Tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của 02 chất ma túy (Ketamine, Methamphetamine) so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại Khoản 3 của Điều 251 Bộ luật hình sự là: 66,56% +1,153% = 67.713% (Thuộc trường hợp dưới 100%).

Như vậy, tội phạm và hình phạt đối với bị cáo A được quy định tại Điểm c, p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Nội dung điều luật như sau:

Điều 251:

"1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

....

c) Đối với 02 người trở lên.

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này”;

Đối với việc Nguyễn Quang B khai đã nhiều lần mua ma túy của A thì ngoài lời khai của B, không còn tài liệu nào khác chứng minh nên không đủ căn cứ xác định A bán ma túy nhiều lần cho B.

[3] Về nhân thân và tiền án, tiền sự của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt chính:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm không chỉ xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý mà còn làm phát sinh các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, đặc biệt là bệnh HIV/AIDS và là nguyên nhân của một số các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Ma túy là một vấn nạn mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đang lên án, ra sức kiềm chế, ngăn chặn. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của mình gây ra và hậu quả, song do thiếu tu dưỡng và ý thức coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố tình phạm tội. Việc đưa bị cáo ra xét xử và có mức hình phạt thỏa đáng, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trước mọi hành vi phạm tội là cần thiết.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để từ đó có hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể: Bị cáo phạm loại tội rất nghiêm trọng, khối lượng ma túy bị thu giữ ở mức tương đối nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời đấu tranh, tuyên truyền, phòng chống tội phạm và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân tốt, mục đích phạm tội xuất phát từ việc bị cáo là người nghiện ma túy và có tình tiết giảm nhẹ như đã phân tích ở trên nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên không có khả năng thi hành án. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để:

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có 03 Ci nilon và 01 mảnh giấy bạc;

+ 01 bật lửa ga;

+ 01 chai nhựa, trên nắp có gắn 02 ống hút bằng nhựa;

Đều thu giữ của Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C;

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 cân điện tử;

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 19,969 gam ma túy Methamphetamine (Đã trích 1,1 gam làm mẫu giám định) và 1,153 gam ma túy Ketamine (Đã trích 0,112 gam làm mẫu giám định);

+ 01 Ci vải màu tím;

+ 01 Ci vải nhiều màu;

+ 01 Ci nilon màu xanh, bên trong có 10 Ci nilon màu trắng;

Đều thu giữ của Đàm Thị A;

Do là những vật Nhà nước cấm lưu hành và những vật không còn giá trị sử dụng;

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước đối với: 01 điện thoại di động Iphone, lắp sim số: 0344871150; 01 điện thoại di động Nokia, lắp sim số: 0862927126 và số tiền 590.000 đồng thu giữ của Đàm Thị A do liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội.

[7] Đối với người tên là “Cường” mà A khai là người bán ma túy cho A và người đàn ông đến giao ma túy cho A: Do A khai không rõ lai lịch cụ thể của những người này nên không có căn cứ điều tra làm rõ là đúng quy định pháp luật.

Ngày 28/01/2021 Công an huyện Đông Anh ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức Cảnh cáo đối với Nguyễn Quang B và Nguyễn Văn C về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng quy định pháp luật.

[8] Quan điểm của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà về hình phạt chính, hình phạt bổ sung đối với bị cáo và xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đàm Thị A phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt chính:

Căn cứ Điểm c, p Khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Đàm Thị A 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2020.

3. Về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo:

- Căn cứ Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có 03 Ci nilon và 01 mảnh giấy bạc;

+ 01 bật lửa ga;

+ 01 chai nhựa, trên nắp có gắn 02 ống hút bằng nhựa;

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 cân điện tử;

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 19,969 gam ma túy Methamphetamine (Đã trích 1,1 gam làm mẫu giám định) và 1,153 gam ma túy Ketamine (Đã trích 0,112 gam làm mẫu giám định);

+ 01 Ci vải màu tím;

+ 01 Ci vải nhiều màu;

+ 01 Ci nilon màu xanh, bên trong có 10 Ci nilon màu trắng;

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone, lắp sim số: 0344871150; 01 điện thoại di động Nokia, lắp sim số: 0862927126 và số tiền 590.000 (Năm trăm chín mươi nghìn) đồng;

(Chi tiết, tình trạng, đặc điểm theo Biên bản giao, nhận vật chứng và Giấy nộp tiền vào tài khoản cùng ngày 20/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Đông Anh với Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh).

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần Bản án hoặc quyết định có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 79/2021/HS-ST

Số hiệu:79/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về