Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 74/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TG - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 11/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh ĐB xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 70/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn L, tên gọi khác: Không. Sinh năm 1969, tại huyện TG, tỉnh ĐB.

Nơi cư trú: huyện TG, tỉnh ĐB; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 07/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn P, sinh năm 1926 và con bà Lò Thị L (đã chết). Vợ bà Lò Thị B, sinh năm 1974; bị cáo có 04 người con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2004; Tiền án: 01 tiền án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, 01 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; tiền sự: không; nhân thân: Năm 1999 bị Tòa án nhân dân huyện TG xử phạt 24 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (chưa được xóa án tích); Năm 2004 bị Tòa án nhân dân huyện TG xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); Năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện TG xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa được xóa án tích). Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/4/2021 đến ngày 26/4/2021, tạm giam từ ngày 26/4/2021 cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị T – Luật sư, thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh ĐB, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 09 giờ 50 phút, ngày 23 tháng 4 năm 2021, tổ công tác cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG làm nhiệm vụ tại bản Sáng, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB phát hiện, bắt quả tang Lò Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm 01 (một) gói giấy bạc, bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine.

Cùng ngày cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG tiến hành khám xét khẩn cấp đối với người và chỗ ở tại bản Sáng, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB phát hiện thu giữ dưới gốc cây đu đủ trong vườn trước nhà bị cáo 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong đựng 17 (mười bảy) gói nilon màu hồng, bên trong các gói nilon đều chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine.

Ngày 23/4/2021, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định:

- 01 (một) gói bột màu trắng (thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn L) có khối lượng 0,03 gam, trích toàn bộ khối lượng 0,03 gam (ký hiệu M1A) làm mẫu trưng cầu giám định.

- 17 (mười bảy) gói bột màu trắng (thu giữ khi khám xét người, chỗ ở của Lò Văn L) có khối lượng 1,03 gam, trích khối lượng 0,09 gam (ký hiệu M2A) làm mẫu trưng cầu giám định.

Kết luận giám định số 544/GĐ-PC09 ngày 30/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh ĐB kết luận:

- 02 mẫu chất bột màu trắng, ký hiệu M1A, M2A trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn L gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

- Tổng khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn L là: 1,06 gam Heroine, không hoàn lại đối tượng giám định.

Năm 2014, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện TG xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số 67/2014/HSST ngày 16/7/2014, đến ngày 21 tháng 01 năm 2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt trở về địa phương.

Cáo trạng số: 56/CT-VKS-TG ngày 07 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG truy tố bị cáo Lò Văn L về tội: Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn L khai nhận: Khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 22/4/2021 bị cáo một mình đi bộ tại bản Sáng, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB để tìm mua ma túy thì gặp một người đàn ông, không biết tên tuổi, địa chỉ. Qua trao đổi bị cáo mua được của người này 01 gói Heroine với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), việc trao đổi mua bán chỉ có bị cáo và người đó không có ai chứng kiến và tham gia cùng. Mua được Heroine bị cáo đi về nhà dùng dao lam chia thành 19 gói nhỏ, được gói bằng các mảnh nilon màu hồng nhằm mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời, từ ngày 22/4/2021 đến ngày 23/4/2021 bị cáo đã sử dụng hết 01 gói. Số gói Heroine còn lại bị cáo cất giấu dưới gốc cây đu đủ trong vườn trước nhà bị cáo, khoảng 09 giờ ngày 23/4/2021 bị cáo ra gốc cây đu đủ lấy 01 gói Heroine mang lên nhà lấy một ít ra sử dụng, số còn lại bị cáo dùng giấy bạc gói lại để trong tủ với mục đích ai hỏi mua thì bán. Đến 09 giờ 50 phút cùng ngày thì bị tổ công tác cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG phát hiện, bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ toàn bộ vật chứng. Tiến hành khám xét khẩn cấp đối với người, chỗ ở, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG thu giữ toàn bộ vật chứng là 17 gói Heroine còn lại.

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TG giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Lò Văn L và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,94 gam Heroine còn lại.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Lò Văn L:

- Nhất trí với Cáo trạng truy tố về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; nguyên nhân phạm tội là do bị cáo nghiện ma túy, hoàn cảnh gia đình đông con, sinh sống ở khu vực có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên nhận thức về pháp luật và xã hội rất hạn chế. Đề nghị HĐXX xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm theo các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cân nhắc về hoàn cảnh, điều kiện, cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất có thể để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội, không phạt bổ sung, miễn án phí hình sự cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng, không có ý kiến bổ sung vào lời bào chữa của người bào chữa, không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó đủ căn cứ kết luận hồi 09 giờ 50 phút ngày 23/4/2021, tại nhà bị cáo Lò Văn L ở bản Sáng, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB. Bị cáo Lò Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,06 (một phẩy không sáu) gam Heroine nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời. Hành vi trên của bị cáo đã cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Năm 2014 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện TG xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo tình tiết tăng nặng định khung “tái phạm nguy hiểm” theo điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là tội rất nghiêm trọng. Tính đến thời điểm bị cáo phạm tội mới chưa được xóa án tích. Vì vậy hành vi Mua bán trái phép chất ma túy lần này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Khoản 2 Điều 251 quy định:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

q) Tái phạm nguy hiểm”.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và đề nghị mức hình phạt là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy bị cáo làm nông nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Bị cáo là người nghiện ma túy và đã từng bị xét xử nhiều lần về các tội phạm ma túy, bị cáo nhận thức rõ ma túy gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của con người nhưng vẫn thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy để thu lợi bất chính. Hơn nữa ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Đảng và nhà nước đã và đang có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm đẩy lùi tệ nạn ma túy; tuy nhiên vì lợi nhuận đem lại từ việc mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Từ những phân tích trên cần có mức án phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình bắt, điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Nhân thân: Năm 1999 bị Tòa án nhân dân huyện TG xử phạt 24 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo bản án số 07/HSST ngày 04/11/1999, năm 2004 bị Tòa án nhân dân huyện TG xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo bản án số 34/HS-ST ngày 17/3/2004, năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện TG xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số 67/2014/HSST ngày 16/7/2014. Tính đến thời điểm ngày 23/4/2021 khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới, bị cáo đã được xóa án tích đối với bản án số 34/HS- ST ngày 17/3/2004, còn bản số án số 07/HSST ngày 04/11/1999 và bản án số 67/2014/HSST ngày 16/7/2014 bị cáo chưa được xóa án tích, vì vậy bị cáo vẫn còn tiền án đối với 02 bản án trên. Bị cáo là người có tiền án, đã từng bị Tòa án xét xử nhiều lần do đó bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo đã bị Tòa án xét xử nhiều lần về tội phạm ma túy và nhận được sự cải tạo, giáo dục của pháp luật nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Sau khi chấp hành án phạt trở về với xã hội, bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật. Do vậy Hội đồng xét xử thấy cần căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân để có mức hình phạt nghiêm khắc hơn đối với bị cáo để giúp bị cáo cai nghiện ma túy, răn đe phòng ngừa tội phạm.

Kiểm sát viên và người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Không phạt bổ sung, miễn án phí hình sự cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp nên cần chấp nhận.

[5] Về mức hình phạt đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TG: Là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đúng với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về đề nghị của người bào chữa cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất có thể. Hội đồng xét xử thấy, bị cáo là người đã từng bị Tòa án xét xử nhiều lần về tội phạm ma túy và là người nghiện ma túy nhận thức rõ về tác hại của ma túy và các quy định của pháp luật. Hơn nữa bị cáo là một người cha nhận thức rõ tác hại của ma túy, lẽ ra bị cáo phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện bản thân và lao động sản xuất để chăm lo cho cuộc sống gia đình, con cái nhưng vì lợi nhuận đem lại từ việc mua bán trái phép chất ma túy mà bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của người bào chữa.

[7] Các vấn đề khác:

- Đối với người đàn ông mà bị cáo khai đã mua Heroine của bị cáo vào ngày 22/4/2021 do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG không có căn cứ để điều tra, xác minh. Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án:

- Đối với 0,94 gam Heroine (đã trích mẫu gửi giám định), xét đây là loại cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Án phí: Bị cáo Lò Văn L là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ nghèo. Do vậy cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

[11] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố, bị cáo Lò Văn L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn L 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/4/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy, một phong bì màu trắng, các mép đều được dán kín, bên trong chứa 0,94 (không phẩy chín mươi tư) gam Heroine (đã trích mẫu gửi giám định).

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện TG, tỉnh ĐB).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Lò Văn L được miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 11/8/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 74/2021/HS-ST

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về